KINH PHÁP BẢO ĐÀN
MA-HA BÁT-NHÃ BA LA MẬT
Qua ngày sau, Vi Sử Quân lại xin giảng nữa, Sư (Lục Tổ Huệ Năng) thăng toà bảo đại chúng rằng: Cần phải tĩnh tâm niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða. Lại nói: Thiện-tri-thức, trí Bồ Đề Bát Nhã của chúng sanh vốn tự có, chỉ vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, phải nhờ Đại Thiện-tri-thức khai thị dẫn dắt để đi đến kiến Tánh. Phải biết Phật Tánh của kẻ ngu người trí vốn chẳng sai biệt, chỉ vì mê ngộ chẳng đồng nên mới có kẻ ngu người trí. Nay Ta thuyết Pháp Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, khiến cho mọi người đều được Trí huệ, hãy chú tâm nghe:
– Thiện-tri-thức! Người đời suốt ngày miệng niệm BÁT NHÃ, chẳng nhận được TỰ TÁNH BÁT NHÃ, cũng như nói ăn mà chẳng no, miệng chỉ thuyết KHÔNG, muôn kiếp chẳng được KIẾN TÁNH, rốt cuộc vô ích.
– Thiện-tri-thức! MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT là tiếng Phạn, dịch là ĐẠI TRÍ HUỆ ĐẾN BỜ BÊN KIA. Đây cần phải tâm hành, chẳng ở miệng niệm. Miệng niệm – tâm chẳng hành thì cũng như huyễn hoá. Miệng niệm – tâm hành thì tâm và miệng tương ưng. Bổn Tánh là Phật, lìa Tánh chẳng có Phật.
– Thiện-tri-thức! Sao gọi là MA HA? MA HA dịch là ĐẠI, tâm lượng quảng đại như Hư Không, chẳng có biên giới, cũng chẳng vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng chẳng trên dưới dài ngắn, cũng chẳng giận, chẳng vui, chẳng phải chẳng quấy, chẳng thiện chẳng ác, chẳng đầu chẳng đuôi. Các cõi Phật đều đồng như Hư Không, Diệu tánh con người vốn không, chẳng có một pháp có thể đắc, Tự Tánh Chơn Không cũng như thế.
Thiện-tri-thức! Chớ nên nghe Ta nói KHÔNG mà liền chấp KHÔNG. Trước nhất chớ chấp KHÔNG, nếu để tâm KHÔNG tĩnh tọa là lọt vào VÔ KÝ KHÔNG.
Thiện-tri-thức! Thế giới Hư Không bao hàm sắc tướng vạn vật, mặt trời, mặt trăng, núi sông, đất đai, cây cối, biển lớn, kẻ dữ, người lành, pháp ác, pháp thiện, thiên đàng, địa ngục…, tất cả đều ở trong Hư không. TÁNH KHÔNG của con người cũng vậy.
Thiện-tri-thức! Tự Tánh hay bao hàm muôn pháp là ĐẠI, muôn pháp đều ở trong Tự Tánh của con người. Nếu thấy điều dữ điều lành của người, tất cả đều chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng chấp chẳng nhiễm, tâm như Hư không gọi là ĐẠI, nên nói là MA HA.
Thiện-tri-thức! Kẻ mê miệng nói, người trí tâm hành. Lại có kẻ mê để “tâm không” mà tĩnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ (VÔ KÝ KHÔNG), tự xưng là Đại. Với bọn người này không thể nói gì được vì họ bị rơi vào tà kiến.
– Thiện-tri-thức! Sao gọi là BÁT NHÃ? BÁT NHÃ dịch là TRÍ HUỆ. Bất cứ nơi nào lúc nào, niệm niệm chẳng ngu muội (chẳng chấp thật), thường hành đúng TRÍ HUỆ, tức là hạnh BÁT NHÃ. Một niệm ngu muội (chấp thật) thì BÁT NHÃ tuyệt, một niệm TRÍ HUỆ thì BÁT NHÃ sanh. Con người ngu mê chẳng thấy BÁT NHÃ, miệng nói BÁT NHÃ mà trong tâm thường ngu muội, tự nói ta tu BÁT NHÃ, niệm niệm nói KHÔNG mà chẳng biết CHƠN KHÔNG. BÁT NHÃ không hình tướng, ấy là tâm TRÍ HUỆ. Nếu hiểu thấu như thế gọi là TRÍ BÁT NHÃ.
Thiện-tri-thức! Tất cả TRÍ BÁT NHÃ đều từ Tự Tánh mà sanh, chẳng từ bên ngoài vào, chớ lầm dùng ý thức, gọi là Chơn tánh tự dụng. Nhất chơn nhất thiết chơn, tâm lượng là việc lớn, chẳng nên hành đạo nhỏ, miệng chớ trọn ngày nói Không mà trong tâm chẳng tu hạnh này, giống như thường dân tự xưng là vua thì không được, hạng người này chẳng phải đệ tử của Ta.
Thiện-tri-thức! Tâm lượng quảng đại cùng khắp pháp giới, dùng thì liễu liễu rõ ràng, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả tức một, một tức tất cả, tới lui tự do, tâm thể vô ngại tức là BÁT NHÃ.
– Thiện-tri-thức! Sao gọi BA LA MẬT? BA LA MẬT là tiếng Ấn Ðộ, dịch là ĐẾN BỜ BÊN KIA, nghĩa là LÌA SANH DIỆT. Chấp cảnh thì sanh diệt dấy lên như nước nổi làn sóng, tức gọi bờ bên này. Lìa cảnh thì chẳng sanh diệt như nước chảy im lìm, tức là bờ bên kia, nên gọi BA LA MẬT.
Thiện-tri-thức! Kẻ mê miệng niệm, đang trong lúc niệm có vọng có sai; niệm niệm nếu hành gọi là Chơn tánh. Kẻ ngộ pháp này là PHÁP BÁT NHÃ, kẻ tu hạnh này là HẠNH BÁT NHÃ. Chẳng tu tức là phàm phu; một niệm tu hành, tự thân bằng Phật.
Thiện-tri-thức! Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ Ðề. Niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ Ðề.
– Thiện-tri-thức! MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT, tối cao tối thượng tối đệ nhất, không trụ không đi cũng không đến, Tam Thế Chư Phật từ đó ra. Cần phải dùng ĐẠI TRÍ HUỆ phá ngũ uẩn phiền não trần lao, đổi TAM ÐỘC THAM – SÂN – SI thành GIỚI – ÐỊNH – HUỆ, tu hành như thế, nhất định thành Phật.
Thiện-tri-thức! Pháp môn này từ một BÁT NHÃ mà sanh ra tám mươi bốn ngàn trí huệ. Tại sao vậy? Vì con người có tám mươi bốn ngàn trần lao, nếu không có trần lao thì trí huệ luôn luôn hiển hiện, chẳng lìa Tự Tánh. Người ngộ Pháp này tức là Vô Niệm, Vô Ức (không ghi nhớ), Vô Nhiễm Trước, chẳng khởi cuồng vọng. Ðối với tất cả Pháp, dùng Trí Huệ của Chơn Như Tự Tánh chiếu soi, chẳng lấy chẳng bỏ, tức là KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT.
– Thiện-tri-thức! Muốn đi vào pháp giới thâm sâu BÁT NHÃ TAM MUỘI, phải tu hạnh BÁT NHÃ, thực hành theo Kinh Kim Cang thì sẽ được KIẾN TÁNH. Phải biết cái công đức của Kinh này vô lượng vô biên, trong Kinh rõ ràng tán thán, chẳng thể kể xiết. Pháp môn này là TỐI THƯỢNG THỪA, vì người đại trí mà thuyết, vì người thượng căn mà thuyết, kẻ căn khí nhỏ nghe được khó tin. Tại sao vậy? Ví như trận mưa bão lụt, thành thị nông thôn đều bị cuốn trôi như cỏ lá, nếu mưa bão trong biển lớn thì chẳng thêm chẳng bớt, như người thượng thừa, người tối thượng thừa nghe được Kinh Kim Cang, tâm liền khai ngộ. Nên biết Tự Tánh vốn có cái TRÍ BÁT NHÃ, Trí Huệ Tự Tánh thường chiếu soi nên chẳng nhờ văn tự. Ví như nước mưa chẳng do trời có mà do khí trời làm nên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cây cối, hữu tình vô tình, đều được thấm nhuần, tất cả sông ngòi đều chảy về biển lớn, hợp thành nhất thể. Cái TRÍ TỰ TÁNH BÁT NHÃ của chúng sanh cũng vậy.
Thiện-tri-thức! Kẻ tiểu căn nghe được PHÁP MÔN ÐỐN GIÁO này cũng như cây cỏ mà gặp mưa bão đều tự gãy đổ, chẳng sanh trưởng được. Họ vốn có cái TRÍ BÁT NHÃ đồng với người đại trí, chẳng có khác biệt, tại sao nghe Pháp mà chẳng được tự ngộ? Ðó là do tà kiến chướng nặng, phiền não căn sâu, cũng như mây lớn che khuất mặt trời, chẳng được gió thổi nên chẳng hiện ánh sáng. CÁI TRÍ của BÁT NHÃ vốn chẳng lớn nhỏ, chỉ vì tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ chẳng đồng. Tâm mê tu hành hướng ngoại tìm Phật mà chưa ngộ Tự Tánh, tức là tiểu căn. Nếu khai ngộ đốn giáo, chẳng chấp lấy hình tướng bên ngoài, chỉ ở trong tự tâm thường khởi Chánh Kiến, phiền não trần lao thường chẳng ô nhiễm, tức là KIẾN TÁNH.
Thiện-tri-thức! Trong ngoài chẳng trụ, đi lại tự do, nếu trừ được Chấp tâm thì thông đạt vô ngại. Nếu tu được hạnh này, với Kinh BÁT NHÃ vốn chẳng sai biệt.
Thiện-tri-thức! Tất cả Kinh điển và văn tự, đại tiểu nhị thừa, mười hai bộ Kinh đều do người đặt ra, vì có tánh trí huệ mới được kiến lập; nếu chẳng có con người thì vạn pháp vốn chẳng tự có. Nên biết vạn pháp vốn do tâm người kiến tạo, tất cả Kinh sách là vì con người mà nói. Vì trong con người có kẻ ngu người trí, ngu là tiểu nhơn, trí là đại nhơn, kẻ ngu hỏi pháp với người trí, người trí thuyết pháp cho kẻ ngu, kẻ ngu đốn ngộ tự tâm thì chẳng khác với người trí vậy.
Thiện-tri-thức! Khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh; lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm, vậy sao chẳng ở trong tự Tâm đốn thấy Chơn-như bản-Tánh? Kinh Phạm Võng nói: Tự Tánh vốn thanh tịnh, nếu nhận được tự Tâm, thấy được bản Tánh, tức thành Phật đạo. Kinh Duy Ma Cật nói: Ngay lúc đó hoát nhiên đốn ngộ, liền được bổn Tâm.
Thiện-tri-thức! Ta ở nơi Hoà Thượng Hoằng Nhẫn vừa nghe câu nói liền ngộ, đốn thấy Chơn-như bản-Tánh cho nên hoằng dương giáo pháp này, khiến hành giả đốn ngộ Bồ Ðề, mọi người tự thấy bổn Tâm, tự kiến bản Tánh. Nếu chẳng tự ngộ, phải tìm người đã khai ngộ pháp tối thượng thừa chỉ ngay đường lối CHÁNH PHÁP, vì Thiện-tri-thức có nhân duyên lớn giáo hóa dẫn dắt khiến hành giả được KIẾN TÁNH, tất cả thiện pháp đều do Thiện-tri-thức mà được kiến lập. Tam thế Chư Phật, mười hai bộ Kinh ở trong Tự Tánh vốn đã đầy đủ, vì tự ngộ chẳng được, nên phải nhờ Thiện-tri-thức chỉ ra mới thấy, chớ kẻ tự ngộ thì chẳng phải nhờ đến người khác. Nếu cố chấp rằng phải luôn luôn ỷ lại Thiện-tri-thức mới mong được giải thoát thì không bao giờ được. Tại sao vậy? Vì ở trong tự tâm sẵn có tri thức tự ngộ, nếu khởi tà kiến mê chấp vọng tưởng điên đảo, dẫu cho gặp Thiện-tri-thức dạy bảo cũng chẳng cứu được. Nếu khởi chơn chánh BÁT NHÃ tham cứu, trong một sát na vọng tưởng đều tiêu, nhận được Tự Tánh, đốn siêu Phật địa.
– Thiện-tri-thức! Dùng Trí Huệ chiếu soi, trong ngoài sáng tỏ rõ ràng thì nhận được bổn Tâm. Nếu nhận được bổn Tâm tức vốn là giải thoát, được giải thoát tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI, BÁT NHÃ TAM MUỘI tức là VÔ NIỆM.
Sao gọi là VÔ NIỆM? Nếu thấy tất cả Pháp mà Tâm không nhiễm trước gọi là VÔ NIỆM, dùng thì khắp nơi, cũng chẳng dính mắc ở khắp nơi. Hễ sạch được bổn Tâm, khiến lục thức ra cửa lục căn, đối với lục trần mà chẳng nhiễm chẳng trước, đi lại tự do, ứng dụng vô ngại tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI, tự tại giải thoát, gọi là Hạnh VÔ NIỆM. Chứ chẳng phải như người lầm tưởng cho là trăm điều chẳng nghĩ, chỉ cho niệm tuyệt (VÔ KÝ KHÔNG), ấy là pháp trói buộc, tức là biên kiến.
Thiện-tri-thức! Kẻ ngộ pháp VÔ NIỆM thông đạt vạn Pháp, ngộ pháp VÔ NIỆM thấy được cảnh giới Chư Phật, ngộ pháp VÔ NIỆM được đến địa vị Phật.
Thiện-tri-thức! Nếu người đời sau ngộ được pháp này, đem pháp môn đốn giáo này với những người đồng một Chánh Kiến – Chánh Hạnh phát nguyện cùng tu, như cúng dường Phật mà suốt đời chẳng thối lui, người ấy nhất định được vào Thánh vị nhưng phải truyền thọ vì từ trước đến nay các Tổ đều mặc truyền tâm ấn, chẳng được ẩn giấu Chánh Pháp. Nếu chẳng phải đồng một Chánh Kiến – Chánh Hạnh, là người đã ở trong pháp khác thì chẳng được truyền thọ, vì sợ kẻ ngu chẳng hiểu, lại sanh phỉ báng pháp môn này, phá hoại truyền thống CHÁNH PHÁP của Cổ Ðức, làm cho muôn ngàn kiếp sau đoạn dứt Phật chủng, cuối cùng vô ích.
– Thiện-tri-thức! Nay Ta có một bài VÔ TƯỚNG TỤNG, mọi người hãy tự giữ lấy, không kể xuất gia, tại gia, nên y theo bài tụng mà tu hành, nếu chẳng tự tu mà chỉ ghi nhớ lời Ta cũng chẳng ích lợi gì. Bài tụng rằng:
Thuyết thông cập tâm thông,
Như nhựt xử hư không,
Duy truyền kiến tánh pháp,
Xuất thế phá tà tông.
Pháp tức vô đốn tiệm,
Mê ngộ hữu trì tật,
Chỉ thử kiến tánh môn,
Ngu nhơn bất khả tất.
Thuyết tức tuy vạn ban,
Hợp lý hườn quy nhất.
Phiền não ám trạch trung,
Thường tu sanh huệ nhựt,
Tà lai phiền não chí.
Chánh lai phiền não trừ,
Tà chánh câu bất dụng,
Thanh tịnh chí vô dư.
Bồ đề bổn Tự Tánh,
Khởi tâm tức thị vọng,
Tịnh tâm tại vọng trung,
Ðản chánh vô tam chướng,
Thế nhơn nhược tu đạo,
Nhất thiết tận bất phương.
Thường kiến tự kỷ quá,
Dữ đạo tất tương đương.
Sắc loại tự hữu đạo,
Các bất tương phương não,
Ly đạo biệt mích đạo,
Chung thân bất kiến đạo.
Ba ba độ nhất sanh,
Ðáo đầu hườn tự áo.
Dục đắc kiến chơn đạo,
Hạnh chánh tức thị đạo.
Tự nhược vô đạo tâm,
Ám hành bất kiến đạo.
Nhược chơn tu đạo nhơn,
Bất kiến thế gian quá,
Nhược kiến tha nhơn phi,
Tự phi khước thị tả,
Tha phi ngã bất phi,
Ngã phi tự hữu quá,
Ðản tự khước phi tâm,
Ðả trừ phiền não phá.
Tắng ái bất quan tâm,
Trường thân lưỡng cước ngọa.
Dục nghĩ hoá tha nhơn,
Tự tu hữu phương tiện.
Vật linh bỉ hữu nghi,
Tức thị Tự Tánh hiện.
Phật pháp tại thế gian,
Bất ly thế gian giác,
Ly thế mích bồ đề,
Cáp như cầu thố giác.
Chánh kiến danh xuất thế,
Tà kiến danh thế gian,
Tà chánh tận đả khước,
Bồ đề tánh uyển nhiên.
Thử tụng thị đốn giáo,
Diệc danh đại pháp thuyền,
Mê văn kinh lũy kiếp.
Ngộ tắc sát na gian.
Dịch nghĩa:
Thuyết thông lại Tâm thông,
Như mặt trời giữa không,
Chỉ truyền Pháp kiến Tánh,
Hoằng pháp phá Tà tông.
Pháp vốn chẳng đốn tiệm,
Mê ngộ có nhanh chậm,
Pháp môn kiến Tánh này,
Kẻ ngu chẳng thể tri.
Thuyết tuy muôn ngàn lối,
Ðúng lý chỉ là một,
Nhà phiền não đen tối,
Thường nên sanh Huệ nhựt,
Tà khởi phiền não tới,
Chánh đến phiền não trừ,
Tà – Chánh đều chẳng chấp,
Thanh tịnh đến cùng tột.
Tự Tánh vốn Bồ-đề,
Khởi tâm tức là vọng,
Tịnh tâm ở trong vọng,
Niệm chánh chẳng tam chướng,
Người đời muốn tu đạo,
Tất cả đều chẳng ngại,
Thường tự thấy lỗi mình,
Với đạo tức tương ưng.
Muôn loài tự có đạo,
Mỗi mỗi chẳng ngại nhau,
Ngoài Tâm đi tìm đạo,
Suốt đời chẳng thấy đạo,
Bôn ba qua một đời,
Sau cùng tự áo não.
Muốn được thấy Chơn Đạo,
Hạnh chánh tức là Đạo,
Nếu tự chẳng đạo Tâm,
Ðen tối chẳng thấy Đạo.
Nếu là người chơn tu,
Chẳng thấy lỗi thế gian,
Nếu thấy lỗi của người,
Trái lại thành tự quấy.
Người quấy, ta chẳng quấy,
Thấy quấy thành tự lỗi.
Hễ bỏ tâm chấp quấy,
Phiền não tự tan rã,
Thương ghét chẳng quan tâm,
Duỗi thẳng hai chân nằm.
Muốn hoá độ chúng sanh,
Tự phải có phương tiện,
Khiến họ hết nghi ngờ,
Tức là Tự Tánh hiện.
Phật pháp tại thế gian,
Chẳng rời thế gian giác,
Lìa thế tìm Bồ-đề,
Cũng như tìm sừng thỏ.
Chánh kiến gọi xuất thế,
Tà kiến gọi thế gian,
Tà – Chánh đều quét sạch,
Tánh Bồ-đề rõ ràng.
Tụng này là đốn giáo,
Cũng gọi đại pháp thuyền.
Lúc mê tu nhiều kiếp,
Ngộ chỉ một sát na.
– Sư lại nói: Nay Ta ở chùa Ðại Phạn thuyết pháp đốn giáo này, nguyện cho Pháp giới chúng sanh nghe được Pháp này liền kiến Tánh thành Phật.
– Lúc ấy Vi Sử Quân và tất cả quan chức, đạo tục nghe Sư thuyết Pháp đều được tỉnh ngộ, đảnh lễ tán thán rằng: Lành thay, đâu ngờ xứ Lãnh Nam lại có Phật ra đời.
(trích Phẩm Bát Nhã – Kinh Pháp Bảo Đàn
Lục Tổ Huệ Năng)
————————————————
LỜI BÀN
Như đã từng nói: ĐẠO TẠI TÂM HÀNH, CHẲNG DO MIỆNG THUYẾT SUÔNG. Tu Phật, người trí tâm hành bởi lòng Từ thống thiết với đại sự sanh tử – khổ luân hồi của muôn vạn chúng sanh; kẻ mê năng thuyết diễn giảng nói suông mà không tự hành, từ đó thêm chấp mê – bồi ngã khi nghe thấy điều trái ý chướng tai, cách Đạo càng xa. MIỆNG NÓI – TÂM HÀNH: đó là Thân-giáo cho thập phương chúng sanh noi theo, nương tựa tu hành trên đường giác ngộ – giải thoát, hành giả xứng đáng là Trưởng tử Như Lai. MIỆNG NÓI – TÂM VỌNG: đó là Đại Vọng Ngữ dối mình – dối người để mưu cầu sự tôn kính, cúng dường, danh lợi… từ thập phương Thiện – Tín, theo nhân quả lẽ dĩ nhiên Phật chủng đoạn dứt, địa ngục tự mở lối vào, khổ đọa muôn kiếp. Hãy nhớ lời Tổ dạy: “người đời suốt ngày miệng niệm BÁT NHÃ, chẳng nhận được TỰ TÁNH BÁT NHÃ, cũng như nói ăn mà chẳng no, miệng chỉ thuyết KHÔNG, muôn kiếp chẳng được KIẾN TÁNH, rốt cuộc vô ích”. TU PHẬT CHỨ ĐỪNG HỌC PHẬT!
TÂM HÀNH thế nào? Đó là trưởng dưỡng TỪ – BI – HỶ – XẢ, đoạn THAM – SÂN – SI, tịnh THÂN – KHẨU – Ý, nghiêm trì GIỚI – ĐỊNH – HUỆ, y theo tinh thần BÁT CHÁNH ĐẠO và LỤC ĐỘ mà sống và tu hành. TÂM HÀNH là nương theo Phật hiệu DIỆU A DI ĐÀ PHẬT hay CÂU THOẠI ĐẦU (Khi chưa có Trời Đất ta là gì…) mà điều phục thân tâm, tịnh hóa nghiệp chướng phiền não trần lao, công phu đến khi VÔ NIỆM liền khai mở TRÍ HUỆ VÔ SƯ, TỰ KIẾN TÁNH PHẬT, liễu thoát tử sanh. Do đó, TRÍ HUỆ VÔ SƯ (BÁT NHÃ TAM MUỘI) là do TÂM HÀNH tinh tấn công phu trì GIỚI – THIỀN ĐỊNH cẩn mật tu chơn, chẳng do thức trí phàm phu “kiến văn giác tri” mà có được. Như lời Tổ dạy: “TRÍ BÁT NHÃ đều từ Tự Tánh mà sanh, chẳng từ bên ngoài vào, chớ lầm dùng ý thức, gọi là Chơn Tánh tự dụng. Cần phải dùng ĐẠI TRÍ HUỆ phá ngũ uẩn phiền não trần lao, đổi TAM ÐỘC THAM – SÂN – SI thành GIỚI – ÐỊNH – HUỆ. Dùng Trí Huệ chiếu soi, trong ngoài sáng tỏ rõ ràng thì nhận được Bổn Tâm. Nếu nhận được Bổn Tâm tức vốn là giải thoát, được giải thoát tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI, BÁT NHÃ TAM MUỘI tức là VÔ NIỆM. Tu hành như thế, nhất định thành Phật”.
Đừng chấp lầm cho rằng VÔ NIỆM là để “tâm Không” trăm điều chẳng nghĩ mà tĩnh tọa, lọt vào VÔ KÝ KHÔNG vốn là Tà kiến, Thiền bệnh. Người tu cần nên tránh!
Mong tất cả tỉnh tâm tu Phật!
Diệu Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật _()_
Diệu A Di Đà Phật _()_
Cổ Thiên
——————————–
Tham khảo thêm các bài viết: