ta-kien-ve-phap-mon-niem-phat

Câu niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT là Mẹ của mười phương ba đời Chư Phật, là cội nguồn của Hạnh Nguyện Từ Bi – Giải Thoát, dung nhiếp mọi căn cơ, đồng quy vạn Pháp giới. Thập phương Chư Phật đồng nương nơi Nguyện lực vô cùng tận của Đức Phật A Di Đà mà khai thị Pháp môn Niệm Phật cho chúng sanh nơi khôn cùng cảnh giới khắp cõi 10 phương y Pháp tu hành, hướng đến giác ngộ, liễu thoát tử sanh thì hàng hậu học ai dám mống tâm khinh chê bài xích? Căn cơ thấp – cao là lý của kẻ mê, Pháp môn thượng – hạ là lời của kẻ chấp, nào biết niệm Phật vi diệu nhiệm mầu không thể nghĩ bàn há có thể lãnh hội được bằng tà kiến đoạn – thường, nhơn – ngã, chấp trước của thế gian? Họ nào biết khi tâm khởi niệm Nam mô A Di Đà Phật tức đã dung thông Tịnh – Thiền – Mật (phương tiện đốn nghi, chớ sanh tình chấp), nay do Đại sự sanh tử quyết dụng công tu hành, thu nhiếp 6 căn quán tâm khởi niệm Nam mô A Di Đà Phật sao cho miên mật ba thời, há sanh chấp trước mà chi tự chướng bít cửa ngộ?!

Thế mà nay lắm kẻ vỗ ngực xưng tên chỉ hoằng Thiền đốn Tịnh, phân biệt lợi – độn căn cơ mà đắp ngã bồi mê, chẳng hay mình mắt tối mê mờ khi bao đời Tổ Sư, Cổ Đức đều do niệm Phật mà kiến ngộ Giác Tánh (kiến Tánh), sau hoằng truyền khuyên chúng niệm Phật như Chư Phật xưa đã từng? Họ thiển trí cho rằng bao đời Tổ Sư chỉ xiển dương Thiền chứ không dạy Tịnh, còn tự áp đặt tà kiến của mình thành ý Tổ, thật là hết nói. Họ chẳng liễu nghĩa: thiền định là “hồi quang phản chiếu, trực Tâm y Tánh tu hành” chớ nào có nghĩa phân Tông rẽ phái. Đã thế, họ còn khinh mạn báng Pháp, bài xích đồng tu, ra oai tự đắc, thật chỉ hoài tổn Đức mà thôi!

Lại có kẻ bảo rằng Đức Phật A Di Đà, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát… là do tưởng tri hoặc có khởi xuất từ Trung Hoa, còn những Kinh điển liên quan như Kinh Vô Lượng Thọ, Diệu Thủ Lăng Nghiêm… đều chẳng phải Phật thuyết? Than ôi tà kiến đến thế là cùng, lại rao truyền nhau tư tưởng mê loạn điên đảo Phật Pháp như vậy thì “Tự Tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ” biết đến bao giờ mới tỏ ngộ, đành chướng lấp thiên thu trôi lăn trong khổ sanh tử luân hồi vạn kiếp.

Lại có kẻ bảo rằng người tu niệm Phật chỉ cầu tha lực, chẳng như Tham thiền phải tự lực ngày đêm? Đó là lỗi do người tu hành mống sanh tình chấp, đường lối tu hành chẳng rõ rốt ráo, giải đãi buông lung…, nào phải do Pháp Phật. Pháp tức vô Pháp nên chớ sanh chấp Pháp, chấp nhơn – ngã. Người tu Phật chơn chánh vì hạnh nguyện cứu độ chúng sanh sẽ luôn chí tâm kiên định, tự lực tự cường miên mật ngày đêm bởi sanh tử vô thường như bóng câu qua cửa chớ nào tà kiến ỷ nơi Phật lực 10 phương gia trì mà giải đãi buông lung, cũng không mống tâm khinh bai bài xích. Nếu đúng thật tâm hạnh chơn tu giới đức trang nghiêm thì Phật độ bất khả tư nghì là lẽ tự nhiên dù hành giả tu Tịnh, tu Thiền hay tu Mật (gọi chung là tu Phật), nên có câu Trang nghiêm Phật độ; còn ngược lại, phóng dật buông lung, giải đãi hý luận, khinh mạn phạm Thượng… thì nhân – quả khổ đọa tất phải tự chịu, lẽ công bằng tự xưa nay. Hơn nữa, công phu đến nhất tâm bất loạn vốn chẳng dễ dàng gì, huống gì thành tựu Chánh định Vô Niệm Ba-la-mật (Niệm Phật Ba-la-mật), kiến ngộ Giác Tánh, liễu thoát tử sanh. Nhất tâm là công phu trì tâm nơi Phật hiệu miên mật không gián đoạn, không bị xen tạp bởi một vọng niệm vi tế nào. Bất loạn là trạng thái nhất tâm kéo dài trong một khoảng thời gian dài hay ngắn tùy vào công phu sâu hay cạn mà sai khác. Do đó, nếu chẳng tự giác cẩn mật tu hành khi còn trẻ khỏe, đến khi ốm đau bệnh tật, tàn hơi kiệt sức, nghiệp lực chiêu cảm oan gia khổ cảnh hiển hiện trước mắt, thân tàn tâm loạn, há còn nhớ nổi câu niệm Phật ư? Nên nhớ, mọi sự trên đời, cả Đời lẫn Đạo, đều phải thuận theo luật Nhân – Quả cảm ứng chí công: Chánh Nhân tu hành trang nghiêm, đến khi công phu niệm Phật thành tựu Vô Niệm Ba-la-mật (Niệm Phật Ba-la-mật) thì Chánh Quả giác ngộ kiến Tánh, liễu thoát tử sanh là lẽ tất nhiên; còn ngược lại, tu hành giải đãi, lạm dụng Phật Pháp, đắp mê bồi ngã tất phải gánh chịu khổ đọa về sau. Thấu được lý này, Đại chúng hãy y theo Tôn chỉ TRỰC TÂM Y TÁNH CHƠN TU, VÔ DỤC – VÔ CẦU – VÔ ĐẮC – VÔ NGÃ – VÔ TRỤ thì trang nghiêm Phật độ gia trì tu tiến, ắt có ngày giác ngộ – thoát khổ luân hồi; tuyệt đừng nhọc tâm khẩn cầu khấn vái nghịch Lý xa rời lẽ Đạo, chấp Sự bỏ Tánh, dần dà rơi vào mê tín thần quyền khó thoát chỉ càng chướng lấp huệ mạng mà thôi. 

Thời mạt tâm, muôn Pháp thi nhau trẩy hội dưới danh nghĩa Phật Pháp, nếu không có Chánh kiến xét suy, không thể minh định tỏ tường Chánh Pháp – Phi Pháp để tránh tu lầm. Còn “Tà sư thuyết Pháp nhiều như cát sông Hằng”, với lối thuyết giảng nửa mê nửa tỉnh, nặng nề sự đời, nghi thức, cúng bái, cầu xin… đậm sắc màu mê tín, nghịch lý Nhân quả – Nghiệp báo chí công đã khiến cho Chánh Pháp Như Lai bị biến tướng thành Tà Pháp, Đường lối tu Phật trực chỉ Chơn tâm bị mai một thành Pháp nạn mê Sự bỏ Tánh, câu chấp sắc tướng hư huyễn, mượn Đạo tạo đời gây nên thực trạng tu hành loạn Pháp bát nháo hiện nay. Có lần, Đức Phật dạy Ngài Mục-Kiền-Liên rằng: “Ví như muôn con sông cùng chảy, có nhiều cây gỗ nổi trôi theo dòng nước, dù trước dù sau cũng chẳng biết gì đến nhau, nhưng hết thảy đều quy tụ về biển cả. Người thế gian cũng vậy, dầu có những kẻ giàu sang sung túc, thảy đều chẳng khỏi những nỗi khổ sanh, già, bệnh, chết. Chỉ vì chẳng tin kính Phật nên chẳng được sanh về nơi ngàn cõi Phật. Vì thế Ta nói rằng cõi Phật A-Di-Đà là dễ đến, dễ được nhưng vì người ta chẳng chịu tu hành, ngược lại đi thờ phụng chín mươi sáu phái ngoại đạo, nên Ta nói rằng những kẻ ấy là không có mắt, không có tai”. Hãy nhớ: TU PHẬT chính là TU TÂM, chẳng phải tu tướng vọng cầu chướng trái, lao xao chấp Sự bỏ Tánh. Nếu chẳng như thế thì niệm Phật, Tham thiền đều là vô ích! 

Xưa, Đức Phật Thích Ca lập Đạo còn chỉ bày Pháp môn Niệm Phật, sao kẻ Tham thiền thời nay lại khinh mạn chê bỏ mà chẳng tu (?). Không có công hạnh niệm Phật làm nền tảng tối yếu, tuyệt không thể tấn tiến Tham thiền. Hãy ghi nhớ!

Mong tất cả tỉnh tâm tu Phật!

Diệu Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật _()_
Diệu A Di Đà Phật _()_

Cổ Thiên

———————————————

Tham khảo: