* CÂU HỎI
Thầy cho con hỏi pháp THẬP NIỆM KÝ SỐ là gì? Cách hành trì ra sao? Có dễ nhiếp tâm và vọng tưởng không thể xen vào được như niệm bình thường không?
* PHÚC ĐÁP
Trong “Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục”, Ngài Ấn Quang đã khai thị rằng:
“Nếu niệm Phật tâm khó quy nhất thì nên nhiếp tâm niệm khẩn thiết, tâm sẽ tự có thể quy nhất. Tâm chẳng chí thành, muốn nhiếp tâm cũng chẳng được. Nếu đã chí thành, nhưng vẫn chưa thuần nhất thì hãy nên lắng tai nghe kỹ; chẳng luận là niệm ra tiếng hay niệm thầm, mỗi niệm đều phải từ tâm khởi, tiếng từ miệng thoát ra, âm thanh lọt vào tai (khi niệm thầm, miệng chẳng động, nhưng trong ấy vẫn có thanh tướng). Tâm và miệng niệm được rõ ràng, tách bạch; tai nghe cho rõ ràng, phân minh. Nhiếp tâm như thế vọng niệm sẽ tự dứt.
Nếu sóng vọng tưởng vẫn còn trào dâng thì dùng ngay pháp THẬP NIỆM KÝ SỐ, dốc toàn bộ sức lực của tự tâm đặt vào mỗi câu Phật hiệu thì vọng muốn khởi cũng chẳng đủ sức. Diệu pháp nhiếp tâm niệm Phật rốt ráo này các vị hoằng dương Tịnh Ðộ trước kia chưa nhắc đến vì căn tánh người thời ấy còn lanh lợi, chẳng cần phải làm vậy vẫn có thể quy nhất. Ấn Quang vì tâm khó chế phục, mới biết cách này mầu nhiệm, càng thực hành càng thấy hiệu nghiệm, chứ chẳng phải là tự tiện nói mò. Xin chia sẻ cùng những người độn căn trong khắp thiên hạ đời sau ngõ hầu vạn người tu, vạn người về.
Pháp THẬP NIỆM KÝ SỐ vừa nhắc đến đó như sau: Trong khi niệm Phật, từ một câu đến mười câu phải niệm cho phân minh, nhớ số phân minh. Niệm hết mười câu lại niệm từ một câu đến mười câu, chẳng được niệm hai mươi, ba mươi câu. Niệm câu nào nhớ câu nấy, chẳng được lần chuỗi, chỉ dựa vào tâm để nhớ. Nếu thấy khó nhớ cả mười câu thì chia ra làm hai hơi: từ câu thứ nhất đến câu thứ năm và từ câu thứ sáu đến câu thứ mười. Nếu vẫn chưa được, hãy niệm thành ba hơi: từ câu thứ nhất đến câu thứ ba, từ câu thứ tư đến câu thứ sáu, và từ câu thứ bảy đến câu thứ mười. Niệm cho rõ ràng, nhớ cho phân minh, nghe cho rành rẽ, vọng niệm không chỗ chen chân, lâu ngày sẽ tự được Nhất Tâm Bất Loạn.
Phải biết là pháp Thập Niệm này nhiếp vọng giống như pháp Thập Niệm Sáng Chiều, chỉ có cách dụng công là khác nhau. Pháp Thập Niệm Sáng Chiều coi hết một hơi là một niệm, chẳng luận là số câu niệm Phật nhiều hay ít; còn cách này cứ một câu là một niệm. Cách kia chỉ có thể niệm mười hơi vào mỗi sáng, chiều; nếu niệm đến hai mươi, ba mươi hơi sẽ bị tổn khí thành bệnh. Cách này niệm một câu Phật hiệu, tâm biết là một câu; niệm mười câu Phật hiệu, tâm biết là mười câu. Từ một đến mười, rồi lại từ một đến mười. Suốt ngày niệm mấy vạn câu đều giống như thế. Chẳng những trừ được vọng, lại còn dưỡng thần rất hay. Dù niệm chậm hay nhanh, trọn chẳng trệ ngại. Từ sáng đến tối, không lúc nào chẳng thích hợp.
So với cách lần chuỗi để nhớ số, lợi ích cách xa một trời một vực. Cách nhớ số bằng chuỗi khiến thân mệt, tinh thần động. Cách Thập Niệm Ký Số này khiến thân thong thả, tâm an nhàn. Chỉ những lúc làm việc khó nhớ nổi số thì cứ khẩn thiết niệm. Làm việc xong, lại nhiếp tâm nhớ số thì những ý tưởng lông bông qua lại sẽ theo nhau gom về chuyên chú nơi một cảnh Phật hiệu. Ðức Ðại Thế Chí nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc tam-ma-địa, ấy là bậc nhất”. Kẻ lợi căn chẳng cần bàn đến, còn như bọn độn căn ta bỏ cách Thập Niệm Ký Số này lại mong “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” thật khó khăn lắm thay!
Lại phải nên biết rằng cách nhiếp tâm niệm Phật này chính là pháp vừa cạn vừa sâu, vừa Tiểu vừa Ðại, chẳng thể nghĩ bàn! Chỉ nên ngửa tin lời Phật, chớ vì mình chưa hiểu đến nơi đến chốn bèn sanh ngờ vực, đến nỗi thiện căn nhiều kiếp do đây phải mất, chẳng thể tự rốt ráo đạt được lợi ích, thật là đáng buồn!
Chỉ nên lần chuỗi niệm Phật trong hai lúc: đi hoặc đứng. Nếu tịnh tọa dưỡng thần, do tay động tinh thần chẳng thể an, lâu ngày thành bệnh. Pháp Thập Niệm Ký Số này, đi, đứng, nằm, ngồi đều thực hành được cả, nhưng lúc nằm chỉ nên niệm thầm, chẳng được niệm ra tiếng. Nếu niệm ra tiếng thì một là chẳng cung kính, hai là bị tổn khí. Hãy nhớ kỹ, nhớ chắc!”
(hết trích)
Qua đó, rõ thấy:
– Ưu điểm của cách THẬP NIỆM KÝ SỐ là giúp cho hành giả dễ nhiếp tâm không loạn nhờ tâm tập trung cao độ vừa niệm Phật – vừa nhớ Số cho đúng, không để lẫn lộn. Khi tâm khởi: NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT (hoặc DIỆU A DI ĐÀ PHẬT) thì được tính là 1 niệm, như vậy vừa hết niệm thứ 1 thì tâm nhớ là 1, liền đến niệm thứ 2 thì tâm nhớ là 2… cho đến niệm thứ 10 thì tâm nhớ là 10; xong trở lại bắt đầu từ 1 cho đến 10…, cứ thế tuần hoàn không gián đoạn. Cách niệm này dùng để đối trị hôn trầm cũng như trạo cử rất hữu hiệu, do đó phù hợp với đại đa số hành giả sơ cơ đang tập hành thiền hay có công phu thiền định chưa thuần thục, chuyên nhất.
– Nhược điểm của cách THẬP NIỆM KÝ SỐ là nhiếp vọng niệm thành 2 niệm: niệm Phật và niệm Số. Do đó, muốn hướng đến “Nhất tâm bất loạn” thì hành giả phải nhiếp “niệm Số: 1, 2,…, 10” ở cuối mỗi câu niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT (hoặc DIỆU A DI ĐÀ PHẬT) trở về niệm Phật, tức tâm “chỉ” chuyên nhất nơi Phật hiệu mà thôi. Tuy nhiên, nếu hành giả công phu tương đối thuần thục thì có thể điều phục tâm mình dễ dàng bằng cách chỉ cần tập trung toàn bộ tâm lực chuyên nhất vào câu niệm Phật, không để ý đến Số nữa thì tự khắc “tịnh niệm (niệm Phật) tương tục” mà thôi.
Một số lưu ý khi niệm Phật theo cách Thập Niệm Ký Số:
– Hành giả không nên vì cố nhớ số mà sao lãng sự chuyên tâm vào câu Phật hiệu.
– Nếu việc nhớ số bị lẫn lộn thì hành giả hãy bắt đầu lại từ 1, không nên cố nhớ lần tìm mà tán tâm thất niệm.
* TÓM LẠI
Tùy theo căn trí mỗi người mà hành giả khi hành thiền niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT:
– Hoặc tâm niệm đến đâu thì tai lắng nghe – trí khắc sâu ghi nhận từng từ từng chữ đến đó, niệm – niệm tương tục tiếp nối không ngừng, không nhanh không chậm như đã giảng trong bài Chia sẻ kinh nghiệm về công phu niệm Phật trước đây. Đây là cách trực tiếp rốt ráo “nhiếp tâm (vọng niệm) về 1 niệm” duy nhất là câu Phật hiệu mà thôi.
– Hoặc tâm niệm theo cách Thập Niệm Ký Số như Đại Sư Ấn Quang đã khai thị. Đây là cách “nhiếp tâm (vọng niệm) về 2 niệm” là niệm Phật và niệm Số. Khi công phu tịnh tâm đã thuần thì hành giả cần tiến thêm bước nữa, “nhiếp 2 niệm trở về 1 niệm” như đã giảng ở trên.
Nếu công phu trì tâm nơi Phật hiệu miên mật, không gián đoạn, không xen tạp bởi vọng niệm vi tế thì hành giả thành tựu “Nhất tâm”. Tuy nhiên, dù đạt “Nhất Tâm” nhưng trạng thái “Bất loạn” này được kéo dài, duy trì lâu hay mau thì tùy vào công phu sâu cạn mà có tầng bậc sai khác. Để công phu “Nhất tâm bất loạn” càng lâu thì đòi hỏi ở hành giả sức Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Kiên Định không ngừng và quan trọng nhất là tâm Vô Ngã – Vô Cầu (Vô Trụ). Chính tâm thái ngã mạn vi tế và tham cầu chứng đắc mà bao người tu bị lạc vào Tà Mị, hoặc rơi vào tội đọa Đại Vọng Ngữ khiến Đạo nghiệp – Huệ mạng bị thối thất, khó gìn. Cho nên, tha thiết khuyên hành giả tu Phật dù công phu ở giai đoạn nào, đạo hạnh có cao thâm đến đâu thì tâm tinh cần phải luôn hết sức khiêm cung mực thước, cẩn trọng ghi nhớ lời Phật dạy “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mới có thể tiến tu bất thối. Nhẫn lực tự hành theo thời gian, khi công phu Nhất Tâm Bất Loạn “chín muồi” sẽ tự nhiên thành tựu “Vô Niệm” (mà chẳng biết), Trí Huệ Vô Sư khai mở, hành giả kiến ngộ Giác Tánh, liễu thoát tử sanh.
Diệu Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật _()_
Diệu A Di Đà Phật _()_
Cổ Thiên
—————————————–
Tham khảo: