Khi tụng Kinh, nếu không có chuông mõ cũng được, bất chấp. Tiếng chuông tiếng mõ chẳng qua là phương tiện trợ duyên công phu tụng niệm.
Khi có đông người hiệp lại tụng Kinh thì chuông mõ trở nên cần thiết hầu giúp ích cho đại chúng được nhứt trí đồng thanh với nhau.
Vậy khi có dùng chuông mõ, cần thực hành cho có nghi thức.
Luyện về cách đánh chuông thì dễ, như trong quyển Kinh này, chỗ nào cần đánh chuông đều có ghi dấu O. Khi đọc Kinh, gặp chỗ có dấu O thì đánh một tiếng chuông, chỗ có ghi dấu OOO thì đánh ba tiếng chuông. Giữ công phu lâu ngày thuần thục thì thuộc lòng nghi thức.
Luận về đánh mõ, có cách thức thông dụng và dễ dàng như vầy: Nhịp 3 tiếng chuông, rồi câu 3 tiếng mõ, kế nhịp 1 tiếng chuông, câu 1 tiếng mõ, làm như vậy đúng ba lần, rồi tiếp 4 tiếng mõ (hai tiếng giữa nhặt) và 1 tiếng chuông.
Ví dụ: boong, boong, boong, cốc, cốc, cốc; boong cốc, boong cốc, boong cốc; cốc, cốc, cốc, boong.
Xong rồi đọc bài “Tán lư hương”, vừa đọc vừa đánh mõ theo nghi thức “vô tam ra tứ” theo như dưới đây:
Lư hương (đánh 1 tiếng mõ)
Sạ nhiệt (đánh 1 tiếng mõ)
Pháp giới (đánh 1 tiếng mõ)
Giữa 6 chữ đầu, đánh thưa 3 tiếng mõ như vậy gọi là “vô tam”, kế tiếp mỗi chữ đánh 1 tiếng mõ, giữ cho đồng đều với nhau. Ví dụ: mông (cốc), huân (cốc)… Cứ giữ như vậy cho tới câu chót trong bài kệ đó là “Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-Tát Ma-ha-tát”.
Ngay chỗ Ma-ha-tát đánh làm 4 tiếng mõ (2 tiếng giữa nhặt). Ví dụ: Ma (cốc) Ha (cốc cốc) Tát (cốc). Đó gọi là “ra tứ”.
Phàm khi khởi một bài Kinh hoặc một bài kệ thì đánh theo cách “vô tam”, và khi dứt một bài Kinh hoặc một bài kệ thì đánh theo cách “ra tứ”, cứ dùng ba chữ chót đánh làm 4 tiếng mõ để cho biết sẽ qua bài khác.
Nên nhớ: khi tới chỗ xướng ba lần hoặc nhiều lần danh hiệu nào có mấy chữ ” Bồ-Tát Ma-ha-tát” sau cùng thì chỉ có lần chót mới đọc ” Ma-ha-tát” mà thôi.
Ví dụ:
– Nam mô Liên-Trì Hải-Hội Phật Bồ-Tát (cốc…)
– Nam mô Liên-Trì Hải-Hội Phật Bồ-Tát (cốc…)
– Nam mô Liên-Trì Hải-Hội Phật Bồ-Tát (cốc…) Ma-ha-tát (cốc, cốc-cốc, cốc).
Khi niệm Phật và tứ-Thánh, đánh mõ như vầy:
– Nam-mô (cốc) A (cốc) Di-Đà (cốc) Phật (cốc).
– Nam-mô (cốc) Quán (cốc) Thế-Âm (cốc) Bồ-Tát (cốc).
– Nam-mô (cốc) Đại (cốc) Thế-Chí (cốc) Bồ-Tát (cốc).
– Nam-mô (cốc) Địa-Tạng (cốc) Vương (cốc) Bồ-Tát (cốc).
– Kế niệm: Nam-mô (cốc) Thanh-Tịnh (cốc) Đại-Hải (cốc) Chúng (cốc) Bồ-Tát (cốc). Tới câu chót thêm Ma-ha-tát (cốc, cốc-cốc, cốc).
Khi tụng những bài Sám Thập Phương thì dùng cái “đẩu” hoặc cái chuông nhỏ (như cái nắp chuông xe máy) đánh đi đôi với mõ. Cứ 1 tiếng mõ 2 tiếng chuông, đánh chậm rãi.
Ví dụ: cốc…keng-keng…, cốc…kengkeng…
Thiền sư Thích Từ Quang)
Diệu A Di Đà Phật _()_