KINH PHÁP CÚ
13. PHẨM THẾ GIAN
Pháp Cú 173
Ai xua tan ác nghiệp,
Bằng thiện ý, hạnh lành,
Sẽ soi sáng quần sanh,
Như trăng lên mây tạnh.
Câu chuyện này xảy ra khi đức Phật ở Kỳ Viên, liên hệ đến Trưởng lão Chỉ Man (Angulimàla tức Ương-quật-ma-la).
Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật ở tại nước Xá-vệ, tinh xá Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên. Bấy giờ trong nước của vua Ba-tư-nặc (Pasennadi) có một tên sát nhân đeo chuỗi tay người – Vô Não. Hắn ta rất hung bạo đẫm máu, chỉ giết chóc phá hoại, không thương xót ai cả. Hắn tàn phá làng nào làng ấy không sống sót, đi qua đô thị nào đô thị ấy hoang mạc, đã giết khu vực nào khu vực ấy không tồn tại. Hắn giết hết người này sang người khác, làm một xâu chuỗi bằng ngón tay các nạn nhân.
Vào một buổi sáng, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Sau khi khất thực Ngài trở về dùng buổi sáng, dọn dẹp phòng xá, rồi mang y bát vào khởi sự đi về con đường tướng cướp Chỉ Man đang ẩn núp. Các kẻ chăn bò, chăn trâu, nông dân chạy đến, thấy Thế Tôn đi về hướng ấy đã kêu lên:
– Này Sa-môn! Ðừng đi hướng đó. Về phía đó có tên sát nhân Ương-quật-ma-la đang ẩn núp. Hắn ta tàn bạo, tay đẫm máu, giết chóc tàn phá không nương tay. Hắn đến đâu là ở đó không còn sự sống. Hắn giết người, làm thành một xâu chuỗi bằng ngón tay nạn nhân đeo trên cổ. Sa-môn ơi! Thỉnh thoảng có từng nhóm mười người, hai mươi, ba mươi, bốn mươi người đi chung với nhau trên đường này, và tất cả đều chết bởi tay Ương-quật-ma-la.
Mặc cho họ lo lắng, đức Thế Tôn tiếp tục đi trong im lặng. Lần thứ hai, lần thứ ba khẩn khoản yêu cầu Ngài đừng đi, nhưng đức Thế Tôn vẫn im lặng đi tiếp.
Ương-quật-ma-la nhìn thấy Thế Tôn đi từ xa. Hắn nghĩ thầm: “Thật lạ lùng! Thật kỳ đặc! Ðã từ lâu người đi đường thường tụ tập thành từng nhóm mười người hoặc hai mươi người, ba mươi người, bốn mươi người đi chung với nhau trên con đường này. Vậy mà giờ đây chỉ có một Sa-môn đi một mình, không bạn đồng hành, như thể ông ta đang thắng trận. Ðược thôi, ta giết Sa-môn này”.
Ương-quật-ma-la xách gươm, nai nịt cung tên, chạy theo sau Thế Tôn. Do thần lực của Phật, nên mặc dù hắn chạy hết tốc lực, Thế Tôn đi bình thường, hắn vẫn không sao bắt kịp đức Phật. Hắn suy nghĩ: “Thật phi thường! Thật lạ lùng! Ta đã từng nắm đứng cả voi, ngựa, xe cộ, nai rừng khi chúng đang chạy. Vậy mà với Sa-môn đang đi thong thả kia, ta chạy hết sức mình vẫn không bắt kịp”. Hắn dừng lại kêu lớn:
– Sa-môn! Dừng lại! Hãy dừng lại, Sa-môn!
– Ta đã dừng. Ương-quật, ngươi cũng nên dừng lại.
Ương-quật nghĩ thầm: “Thái tử dòng họ Thích nói thật, phát ngôn thành thật, nhưng Sa-môn này nói đã dừng trong khi đang đi. Ta phải hỏi ông mới được”.
Ương-quật nói kệ:
Sa-môn!
Mặc dù đang đi, ông nói: “Ta đã dừng”.
Còn tôi đang đứng, ông lại nói: “Ngươi chưa dừng”.
Giờ đây, tôi xin hỏi câu này nhé!
Vì sao ông đã đứng mà tôi đang đi?
Thế Tôn trả lời:
– Này Ương-quật! Ta đứng lại từ lâu vì Ta thường từ ái với mọi người. Còn người không chút xót thương ai và vì thế đã đứng còng ngươi chưa đứng, Ương-quật!
– Từ lâu tôi tôn kính Ngài, bậc trí tuệ phi thường, đại ẩn sĩ rừng sâu. Giờ đay được nghe lời chỉ dạy, tôi sẽ từ bỏ mọi hành động ác xấu.
Nói xong, tên sát nhân ném khí giới xuống hố, phủ phục dưới chân Thế Tôn xin được làm đệ tử Ngài.
Ðức Phật từ bi, đấng trí tuệ đệ nhất, bậc thầy của trời người, nói với tên sát nhân:
– Thiện lai, Tỳ-kheo!
Và chỉ như thế, đã biến y thành một Sa-môn. Sau đó, Thế Tôn đi về thành Xá-vệ, có Thượng tọa Ương-quật làm thị giả, Ngài đi vào tinh xá Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên. Khi ấy trước hoàng cung của vua Ba-tư-nặc (Pasenadi), dân chúng tụ tập đông đảo và hô hoán:
– Muôn tâu Hoàng thượng! Có một tên sát nhân trong lãnh thổ của đại vương tên Ương-quật-ma-la. Hắn khát máu, tàn bạo, giết người không gớm tay. Hắn đi qua làng mạc, đô thị, phố xá nào, nơi ấy không ai sống sót. Hắn giết người, lấy ngón tay kết thành chuỗi đeo cổ. Xin đại vương trừng trị hắn.
Sáng sớm, vua Ba-tư-nặc rời hoàng cung với năm trăm xa mã, đi về phía tinh xá. Nhà vua đi xe trên khoảng đường có thể đi xe, xuống xa đi bộ đến chỗ Thế Tôn. Ðến nơi nhà vua cúi chào Phật và cung kính ngồi một bên. Thế Tôn hỏi:
– Ðại vương có điều gì phiền nhiễu? Vua Tần-bà-sa-la của nước ma-kiệt khiêu chiến chăng? Hay các hoàng tử Licchavi của Tỳ-xá-ly gây hấn? Hay vài kẻ cựu thù khác?
– Bạch đức Thế Tôn! Không, vua Tần-bà-sa-la chẳng khiêu khích con. Nhóm Licchavi cũng không. Chẳng có kẻ thù nào khác. Bạch Thế Tôn, có một tên sát nhân tên Ương-quật-ma-la trong nước con. Hắn tàn bạo, khát máu, tàn phá mọi đô thị, làng mạc, hắn đeo xâu chuỗi tay người. Và con không thể nào trừng trị hắn.
– Này đại vương! Giả sử đại vương thấy Ương-quật với râu tóc cạo sạch, khoác y vàng từ bỏ đời sống gia đình sống đời không gia đình, không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối, chỉ ăn ngày một bữa, sống đời Phạm hạnh, đạo đức chân thật. Khi ấy nhà vua sẽ đối xử với y như thế nào?
– Bạch Thế Tôn! Con sẽ cúi chào người ấy, con sẽ đứng dậy và mời ngồi, con sẽ xin được cúng dường y phục, thức ăn, phòng xá, thuốc men cho vị ấy. Con sẽ bảo vệ, ủng hộ vị ấy tu hành với chánh pháp. Nhưng, bạch Thế Tôn! Làm sao một người cực ác như thế lại có thể hoàn toàn vâng theo những tín hiệu luân lý?
Khi ấy, Thượng tọa Ương-quật-ma-la ngồi cách Phật không xa. Và đức Phật đưa tay chỉ cho nhà vua.
– Ðại vương, Ương-quật-ma-la đây!
Vua Ba-tư-nặc run lên vì sợ, chân tay lập cập, tóc dựng đứng. Ðức Thế Tôn thấy thế khuyên nhà vua:
– Ðừng sợ hãi, đại vương! Ðừng sợ hãi! Ðại vương không có gì phải sợ cả.
Ngay lúc đó, nhà vua lấy lại bình tĩnh, cơn xúc động lắng xuống, nhà vua đến chỗ Thượng tọa Ương-quật-ma-la, hỏi thăm:
– Bạch Ðại đức, có phải Ngài là Ương-quật-ma-la?
– Thưa vâng!
– Xin được phép biết tôn danh của thân phụ và thân mẫu Ngài?
– Ðại vương! Thân phụ tôi họ Gagga, thân mẫu tôi họ Mantànì.
– Bạch đại đức! Vinh hạnh thay cho Thượng tọa dòng Gagga cao quý, con trai của Mantànì.
Trẫm sẽ tận tình cúng dường y phục, thức ăn, phòng xá, thuốc men cho Ngài.
Nhưng khi ấy, Thượng tọa Ương-quật-ma-la đã tuân theo các điều kiện khổ hạnh như: ở trong rừng, đi khất thực, mặc y phấn tảo, chỉ giữ ba y nên trả lời:
– Ðại vương! Ba y tôi đã đủ.
Vua Ba-tư-nặc đến chỗ Phật, kính cẩn ngồi một bên, và thưa:
– Bạch Thế Tôn! Thật kỳ diệu. Thế Tôn điều phục người không thể điều phục, trấn an kẻ dấy loạn, chế ngự kẻ không thể chế ngự. Thế Tôn điều phục không cần đến roi gậy, gươm đao với những kẻ mà nếu chúng con có dùng đến roi gậy, gươm đao cũng không thể chế ngự nổi. Bạch Thế Tôn! Bây giờ con phải về, có những việc phải làm, phải lưu tâm.
– Ðại vương cứ tùy nghi.
Vua Ba-tư-nặc đứng lên lễ Phật, đi nhiễu quanh và trở về.
Một buổi sáng, Thượng tọa Ương-quật-ma-la đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Và khi Thượng tọa đi theo thường lệ từ nhà này sang nhà khác, Ngài thấy một bà mẹ đang đau đớn vì sắp sinh. Thấy thế, Ngài nghĩ thầm: “Ôi! Chúng sanh đau khổ xiết bao”.
Khất thực xong, Thượng tọa trở về, ăn sáng xong, đi đến chỗ đức Phật đảnh lễ và ngồi một bên thưa:
– Bạch Thế Tôn! Sáng nay, con đi khất thực trong thành Xá-vệ như thường lệ, và trông thấy một thiếu phụ đau đớn vì sanh khó. Khi trông thấy cảnh ấy, con nghĩ thầm: “Chao ôi! Chúng sanh đau khổ xiết bao!”.
– Ðược rồi, này Ương-quật-ma-la, hãy trở vào thành Xá-vệ, đến chỗ thiếu phụ ấy và nói rằng: “Này cô! Từ khi tôi sanh ra, tôi không có ác tâm giết hại đối với bất cứ chúng sanh nào. Nếu điều này đúng sự thật, xin an lành đến với cô và đứa bé sắp sanh”.
– Nhưng, bạch Thế Tôn! Ðó là điều cố ý nói dối, vì con đã cố ý giết hại bao nhiêu chúng sanh.
– Thôi, Ương-quật-ma-la hãy đến nói thế này: “Này cô, từ khi tôi sanh vào dòng Thánh, tôi không cố ý giết hại bất cứ người nào. Nếu điều này đúng sự thật xin an lành đến với cô, an lành cho đứa bé sắp sinh”.
– Thưa vâng.
Thượng tọa Ương-quật-ma-la vâng lời Thế Tôn, trở vào thành Xá-vệ, đến nói với thiếu phụ… lập tức nàng được an ổn, đứa trẻ chào đời an ổn.
Thượng tọa Ương-quật-ma-la sống độc cư, rút lui khỏi thế gian, chuyên tâm quyết ý và chẳng bao lâu ngay đời này, tôn giả an trú trong trí tuệ, đạt được Minh sát tuệ, và đạt được mục đích tối cao của dòng Thánh, đó cũng là mục đích của những người trẻ tuổi từ bỏ cuộc đời, từ bỏ gia đình sống không gia đình. Tôn giả tuyên bố: “Ðời này là đời cuối, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, ta không còn trở lại đời này”. Thượng tọa đã chứng A-la-hán.
Vào một buổi sáng, Tôn giả Ương-quật-ma-la đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Thấy Tôn giả, người thì ném đất, kẻ ném gậy kẻ ném đá, đánh đập Tôn giả. Tôn giả trở về, đầu vỡ, máu chảy, bát bể, y áo rách tả tơi, đi đến chỗ Thế Tôn. Thế Tôn trông thấy từ xa, an ủi:
– Hãy nhẫn Bà-la-môn, hãy nhẫn Bà-la-môn, ngươi đang chịu đau khổ hiện tại vì quả báo của những hành động ác, thay vì chịu đau đớn ở địa ngục trong nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm.
Giờ đây, Tôn giả Ương-quật-ma-la sống một mình tu ẩn, hưởng niềm vui an lạc của giải thoát.
Tôn giả nói kệ:
(172) Ai sống trước buông lung
Sau sống không phóng dật,
Chói sáng rực đời này,
Như trăng thoát mây che.
(173) Ai dùng các hạnh lành,
Làm xóa mờ nghiệp ác,
Chói sáng rực đời này,
Như trăng thoát mây che.
(382) Tỳ-kheo tuy tuổi nhỏ,
Siêng tu giáo pháp Phật,
Soi sáng thế gian này,
Như trăng thoát khỏi mây.
Người thù của ta, hãy lắng nghe giáo lý.
Người thù của ta, hãy quy y theo Phật.
Người thù của ta, hãy vun bồi người tốt,
Người chỉ tân hành giáo pháp của Phật.
Người thù của ta, hãy nghe giáo lý
Của người giảng hạnh nhẫn nhục,
Của người ca ngợi lòng vị tha không ác ý,
Và khi đến thời hãy tuân theo giáo lý ấy.
Người như thế không hại mình, hại người.
Người ấy sẽ đạt được Niết-bàn
Và che chở cho mọi chúng sanh.
(80) Người trị thủy dẫn nước,
Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn gỗ,
Bậc trí nhiếp tự thân.
Có người chỉ thị được bằng roi, câu móc, gậy gộc.
Ðức Phật dạy ta không bằng roi hay gươm.
Ngày xưa tên ta là “Sát nhân”,
Nhưng nay ta tên “Bất hại”.
Ngày xưa ta tên Ương-quật, kẻ giết người.
Ðược sanh vào dòng Thánh ta quy y theo Phật.
Ngày xưa ta tên Ương-quật, tay đẫm máu.
Tỉnh ra! Ta quy y Phật,
Mắt trí tuệ sáng ngời.
Làm điều ác rơi vào địa ngục,
Ta đã chịu quả ấy.
Giờ trả nợ xong, ta hưởng quả của ta.
(26) Chúng ngu si thiếu trí,
Chuyên sống đời phóng dật.
Người trí, không phóng dật,
Như giữ tài sản quý.
(27) Chớ sống đời phóng dật.
Chớ say mê dục lạc.
Không phóng dật, thiền định,
Ðạt được an lạc lớn.
Cung kính, không thất lễ là lời dạy ta vâng theo,
Ta chẳng phải được chỉ dạy điều dở.
Ta đã bước vào hoàn cảnh tốt đẹp nhất,
Trong tất cả hoàn cảnh đã trải qua.
Ta đã chứng Tam minh,
Ta đã giữ giới Phật dạy.
Khi Tôn giả Ương-quật-ma-la nói xong kệ, Ngài nhập Niết-bàn Vô dư. Các thầy Tỳ-kheo tụ tập ở Pháp đường bàn tán:
– Chư hiền, Trưởng lão ấy sanh về đâu?
Khi ấy, đức Thế Tôn đi đến, Ngài hỏi:
– Các Tỳ-kheo! Các ông ở đây bàn tán về chuyện gì?
– Bạch Thế Tôn! Chúng con đang bàn về nơi tái sanh của Trưởng lão Ương- quật-ma-la.
– Ông ấy đã vào Niết-bàn.
– Bạch Thế Tôn! Thế ư? Vào Niết-bàn sau khi đã giết hết chừng ấy người?
– Ðúng thế! Này các Tỳ-kheo! Trước đây, thiếu người hướng dẫn sáng suốt, ông ấy gây nên tội lỗi. Nhưng sau đó, khi ông ấy vâng theo sự chỉ dạy của Bậc minh sư, ông sống rất chánh niệm. Vì thế, ông ấy xóa tan hành động ác quá khứ bằng việc lành.
Thế Tôn nói kệ:
173. Ai xua tan ác nghiệp,
Bằng thiện ý, hạnh lành,
Sẽ soi sáng quần sanh,
Như trăng lên mây tạnh.
(bài kết hợp từ Tích Truyện Pháp Cú (Thiền viện Viên Chiếu)
và Thi Kệ Pháp Cú Kinh (Tịnh Minh))