Đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên vô cùng hy hữu và thù thắng, đó là khai thị độ tận tất cả chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, vĩnh viễn thoát ly khổ sanh tử luân hồi.
1. Các hàng Chư Thiên cung thỉnh Bồ Tát từ giã cõi trời Đâu Xuất xuống trần.
2. Nhận lời thỉnh mời, Ngài rời thiên cung, giáng trần tại thành Ca Tỳ La Vệ trong dòng vương tộc Thích Ca.
3. Lúc đản sanh từ lòng mẹ, Ngài bước đi bảy bước, chân nở bảy đóa sen.
4. Đạo sĩ A Tư Đà thấy sắc tướng của bậc Đại Nhân bèn đảnh lễ.
5. Cả 8 thầy Bà La Môn đều xin đặt tên là Tất Đạt Đa, nghĩa là thành tựu.
6. Thuở thiếu thời, Ngài từng đắc Sơ Thiền khi ngồi dưới gốc cây mận trong buổi lễ Hạ Điền.
7. Trổ tài thiện nghệ giương cung, tiếng dây bật vang lừng khắp thành đô.
8. Thái tử Tất Đạt Đa làm lễ thành hôn với Công chúa Da Du Đà La của kinh thành Đề Bà Đa Ha.
9. Khi đi dạo khắp kinh thành, Ngài thấy 4 điềm thiên sứ hiện là: Già, Bệnh, Chết và Sa Môn.
10. Đang tắm ở hồ sen, quân hầu đến tâu cho biết là Công chúa Da Du Đà La đã sinh hạ Thái Tử.
11. Tỉnh ngủ giữa đên khuya, Ngài thấy hình ảnh các cung nữ bèn nảy sinh sự nhàm chán và xả ly.
12. Trong đêm, Ngài đến thăm Công chúa Da Du Đà La và con trai La Hầu La. Ngài quyết định xuất gia tầm Đạo giải thoát độ tận chúng sanh.
13. Ma vương Ba Tuần đến cản và bảo rằng chỉ còn 7 ngày là Ngài sẽ được cai trị quốc độ, nhưng không được kết quả gì.
14. Bên dòng sông Anoma, Ngài dùng gươm cắt tóc và nguyện xuất gia tầm Đạo.
15. Cho người hầu Xa Nặc đem gươm và ngựa Kiền Trắc trở về kinh thành báo cho Đức vua Tịnh Phạn biết chuyện.
16. Xa Nặc xin được xuất gia luôn nhưng không được. Ngựa Kiền Trắc thấy Ngài không lay chuyển, lòng bịn rịn rơi nước mắt.
17. Ngài đi qua thành Vương Xá, dân chúng thấy dáng Đại Nhân tướng bèn bàn tán xôn xao khắp nơi.
18. Đức vua Tần Bà Sa ngự đến thưa rằng, nếu Ngài chứng đạo thì xin về độ cho mình trước tiên.
19. Học tập với đạo sĩ A-la-ra đến hết khả năng của thầy nhưng vẫn chưa phải là con đường giác ngộ nên Ngài từ giã ra đi.
20. Ngự đến tu viện của đạo sĩ Uất Đầu Lam Phất, Ngài vẫn chưa thấy được ánh sáng giải thoát.
21. Ngài ngự đến thôn Ưu Lâu Tần Loa, một nơi an lành mát mẻ với dòng sông trong vắt chảy qua và có nhóm anh em Kiều Trần Như đến cùng tu học.
22. Ngài bắt đầu hành pháp khổ hạnh, nhịn ăn, nín thở… Chư Thiên đem vật thực cõi Trời đến dâng nhằm bảo toàn tính mạng cho Ngài.
23. Năm anh em Kiều Trần Như hầu cận Ngài lúc hành pháp khổ hạnh, Chư Thiên bèn gảy đàn 3 dây để nhắc nhở: “Ngài không nên hành pháp cực đoan”.
24. Vào ngày Đại Giác Ngộ, có bà Tu Xà Đề dâng sữa vì nghĩ rằng Ngài là một vị Thọ thần.
25. Ngài thả mâm vàng và nguyện rằng sắp tới nếu đạt quả Vô thượng Bồ Đề thì mâm sẽ trôi ngược dòng.
26. Mâm trôi một đoạn rồi chìm xuống đáy nước đụng phải ba cái mâm trước đó. Việc này làm cho rồng chúa thức giấc và biết rằng có thêm một vị Phật vừa mới giác ngộ.
27. Ma vương dẫn đạo quân đến giao chiến, Nữ thần đất đai vuốt tóc biến thành đại dương, cuối cùng Ma vương bại trận.
28. Ngài đại ngộ thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào ngày mồng 8 tháng 12.
29. Dưới cội Bồ Đề, trời đổ mưa dữ dội, có rắn chúa đến cuộn quanh và bành mang che đỡ mua gió cho Ngài.
30. Hai thương gia đến dâng cơm cho Ngài và xin quy y trở thành hai cư sĩ đầu tiên.
31. Ngài trầm ngâm ưu tư trong việc truyền bá Giáo pháp, Phạm Thiên Sahampati cung thỉnh Ngài thuyết Pháp độ sanh.
32. Ngài nghĩ đến chúng sanh cũng như bốn loại hoa sen.
33. Khi ngự hành để độ cho 5 anh em Kiều Trần Như, Ngài gặp ngoại đạo Upakajivaka giữa đường.
34. Thuyết pháp lần đầu tiên Kinh Chuyển Pháp Luân giúp cho Ngài Kiều Trần Như đắc Pháp Nhãn.
35. Trưởng giả Da Xá chán chường gia cảnh đi vào rừng gặp Đức Phật, được nghe Pháp, xuất gia thành Tỳ-khưu và đắc quả A La Hán.
36. Bên dòng sông Neranjara, Đức Phật gặp Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp và đồ chúng là những người theo đạo thờ lửa.
37. Ngài xin nghỉ tại Đền thờ Lửa, Rồng chúa ở đấy bèn phun khí độc làm hại, Ngài dùng thần thông áp đảo và bắt nhốt vào bình bát.
38. Thủy tai hoành hành, nước lụt ngập tràn nhưng không đến được chỗ Ngài ngự, các tu sĩ bện tóc thấy điều diệu kỳ bèn xin xuất gia theo.
39. Ngài Mục Kiền Liên và Ngài Xá Lợi Phất đến xin xuất gia, về sau đắc quả A La Hán trở thành nhị vị Thượng thủ đệ tử phía Tả và phía Hữu.
40. Đức Phật truyền dạy Giải thoát giáo đến 1.250 vị Thánh tăng A La Hán vào đêm rằm tháng giêng.
41. Vua cha hay tin, đến trách cứ rằng điều đó trái với truyền thống của dòng dõi vua chúa, và cung thỉnh Ngài trở về triều kế vị.
42. Hoàng hậu Da Du Đà La khóc than tâm sự khi Ngài về thăm Ca Tỳ La Vệ.
43. Đức Phật giao cho Xá Lợi Phất làm thầy tế độ cho hoàng nhi La Hầu La xuất gia làm vị Sa-di đầu tiên trong Giáo đoàn.
44. Bằng trí huệ, Ngài quán xét chúng sanh và thấy Angulimala (Ương-câu-lê-ma-la) sẽ giết mẹ rồi bị đọa vào A-tỳ địa ngục.
45. Angulimala (Ương-câu-lê-ma-la) đuổi theo Đức Phật nhưng chẳng kịp bèn gọi Ngài hãy dừng lại. Ngày dạy: “Ta đã dừng rồi, còn ngươi chưa chịu dừng”.
46. Đề Bà Đạt Đa biểu diễn thần thông cho Thái tử A Xà Thế (con Đức vua Bimbisara) nảy sinh đức tin nhằm hy vọng Thái tử bằng lòng theo kế hoạch xấu xa của mình.
47. Đề Bà Đạt Đa cho thợ săn đến sát hại Đức Phật, nhưng khi gặp Ngài lại nảy sinh đức tin trong sạch và buông vũ khí, nghe Pháp đắc đạo.
48. Đề Bà Đạt Đa biết lỗi, buồn rầu đến độ hộc máu xin được sám hối, nhưng cuối cùng đã bị đất rút xuống hỏa ngục trước khi được gặp Đức Phật.
49. Thần y Jivaka Komarabhacca, bác sĩ thường trực của Đức Phật, chế thuốc chữa cho Ngài đến lúc khỏi bệnh.
50. Đức Phật cho phép Tỳ-khưu được mặc y do thí chủ dâng cúng, không nhất thiết chỉ mặc một loại y pamsukula (phấn tảo y) theo lời thỉnh cầu của thần y Jivaka.
51. Ngài ngăn cản không cho hai phía bà con bên ngoại và bên nội tranh giành nhau sử dụng nước từ con sông Rô-hi-ni chảy qua.
52. Ngài đến viếng thăm Vua cha đang lâm trọng bệnh, thuyết Pháp tiếp độ. Cuối cùng, Vua cha đắc quả A La Hán và nhập diệt.
53. Biểu thị song thần thông trước chúng ngoại đạo bằng cách trồng hạt xoài và tưới bằng nước rửa tay, chốc lát cây xoài mọc lên rất nhanh.
54. Nhập hạ, Ngài hiện thân lên cung trời Đao Lợi thuyết tạng Vi Diệu Pháp độ mẫu thân Maya.
55. Lần nọ, khi Ngài nhập hạ một mình, có voi chúa và khỉ chúa hộ độ tại rừng Pailaya.
56. Ngài A Nan thỉnh cầu Đức Phật tiếp tục trụ thế độ sinh, nhưng Ngài dạy rằng đã quyết, ba tháng sau sẽ nhập Đại Niết Bàn.
57. Ngài nhận bữa ăn cuối cùng từ ông Thuần Đà, căn dặn phần còn lại đem chôn đi.
58. Ngự hành đến thành Câu Thi Na, Ngài lâm bệnh nặng, cho thị giả A Nan múc nước uống đỡ khát.
59. Truyền cho Ngài A Nan chuẩn bị chỗ nghỉ dưới hai cội cây sala đang trổ hoa thơm ngào ngạt. Ngài nằm nghiêng xuống, quyết không dậy nữa.
60. Đức A Nan dằn lòng không được khóc lóc than vãn bên ngoài.
61. Sau khi căn dặn chư Tăng Ni lấy Pháp và Luật làm thầy, Đức Phật nhập Đại Niết Bàn.
Xin chân thành cảm ơn các tác giả đã họa nên bộ tranh khái lược về cuộc đời của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.