KINH PHÁP CÚ

14. PHẨM PHẬT ĐÀ

Pháp Cú 181

Phap-Cu-181
Ảnh: sưu tầm

Người trí chuyên thiền định,
Thích an tịnh viễn ly,
Bậc chánh giác, chánh niệm,
Chư thiên cũng kính qui.

Ðức Phật dạy câu này khi Ngài ở tại cổng thành Sankassa, liên hệ đến nhiều thiên, nhơn. Nhưng câu chuyện bắt đầu từ Vương Xá.

2A . Phật Quở Tân Ðầu Lư

Có một lần, một nhà Trưởng giả thành Vương Xá đến sông Hằng để tắm. Ðể khỏi mất đồ trang sức và y phục, ông đặt tất cả vào giỏ mây. Lúc ấy có một cây bạch đàn đỏ mọc bên bờ sông Hằng, rễ bị sóng nhồi bật gốc lên, đổ xuống sông Hằng bị những tảng đá dưới sông từ từ đánh gãy vụn từng mảnh. Một mảng gỗ bị nước mài nhẵn, trôi lềnh bềnh gần giỏ mây và bị mắc vào đó. Trưởng giả hỏi:

–   Cái gì thế?

–   Thưa một khúc cây, người hầu trả lời.

Ông bảo đem đến xem, và tự hỏi: “Gỗ này là loại gỗ gì?” Ông lấy búa tách ra một mảnh và thấy rằng đấy là loại gỗ bạch đàn đỏ, loại màu cánh gián. Ông Trưởng giả chẳng tin một tôn giáo nào, nhưng rất công bình. Cầm khúc gỗ đỏ đẹp ông nghĩ: “Ở nhà ta có cả khối loại gỗ này, ta sẽ làm gì với khúc gỗ này“. Rồi ông tự nghĩ: “Có nhiều người tự xưng là A-la-hán, họ nói: Chúng tôi là A-la-hán. Nhưng ta chẳng biết một vị A-la-hán nào. Ta sẽ bảo tiện một cái bát bằng gỗ này, lấy dây treo lên một giàn tre cao khoảng sáu mươi cubits (khoảng hai trăm thước). Và thông báo: “Nếu ai là A-la-hán, hãy bay lên và lấy chiếc bát. Người nào lấy được, ta và vợ con ta sẽ làm đệ tử“. Nghĩ như thế, ông trở về, ra lệnh làm chiếc bát gỗ lấy dây treo lên một giàn tre và tuyên bố:

–   Nếu bất cứ ai trên thế gian này là A-la-hán, hãy bay lên và lấy cái bát này!

Các Lục sư ngoại đạo nói với ông:

–   Cái bát này chính là vật dành cho chúng ta. Hãy trao nó cho chúng ta.

Nhưng Trưởng giả chỉ nói:

–   Bay lên và lấy đi.

Vào ngày thứ sáu, Ni-kiền-tử, nhà khổ hạnh lõa thể bảo đệ tử đi đến nói với ông Trưởng giả: “Cái bát này chính là dành cho thầy ta, đừng đòi hỏi chúng ta bay lên không trung chỉ vì một vật nhỏ mọn. Hãy đưa bát đây“. Họ đến nói với ông, và về trả lời:

–   Ông ta nói cái bát chỉ thuộc về người nào có thể bay lên và lấy nó.

Ni-kiền-tử quyết định đi. Ông ra lệnh cho đệ tử:

–   Ta sẽ nhấc một tay và một chân, và cử động như sắp bay lên. Lúc đó, các ngươi hãy nói: “Thưa Tôn sư, thầy làm gì thế? Xin thầy đừng phô bày quyền năng ẩn mật của một vị A-la-hán trước đám đông, chỉ vì một bát gỗ”. Nói như thế, các người kéo tay chân ta xuống, và đẩy ta nằm dưới đất.

Xong, Ni-kiền-tử đến nói với Trưởng giả:

–   Này Ðại Trưởng giả, cái bát này rốt cuộc không phải là vật của ai khác. Ðừng đòi hỏi ta bay lên không trung chỉ vì một vật tầm thường như thế. Hãy đưa bát cho ta.

–   Thưa Tôn ông, hãy bay lên và lấy nó, chỉ có một cách ấy thôi.

Ni-kiền-tử bảo các đồ đệ:

–   Ðược rồi, đến đây, đến đây.

Khi họ đến, ông nói:

–   Bây giờ, ta sẽ bay lên.

Nói thế, ông nhấc một tay và một chân lên. Lúc đó, đám đệ tử la lên:

–   Tôn sư! Tôn sư! Thầy làm gì thế? Tất cả chỉ vì một cái bát gỗ hạ tiện, khốn khổ, cần gì thầy phải phô bày quyền lực ẩn mật giữa đám đông?

Họ chạy tới, lôi tay chân ông lại và đặt nằm xuống đất. Ông bảo Trưởng giả:

–   Ðại trưởng giả, mấy đệ tử này không muốn tôi bay lên không trung, xin hãy đưa bát cho tôi.

–   Ðại sư! Hãy bay lên và lấy đi.

Lục sư ngoại đạo thử cố công trong sáu ngày nhưng mặc cho họ cố gắng vẫn chẳng lấy được bát gỗ.

Ngày thứ bảy, Tôn giả Mục-kiền-liên và Tôn giả Tân-đầu-lư-phả-la-đọa (Pindola Bhàradvàja) sửa soạn đi khất thực trong thành Vương Xá, các Ngài dừng ở một tảng đá bằng phẳng và quấn y.

Lúc ấy có vài người đi săn nói chuyện với nhau:

–   Này bạn, sáu giáo chủ ngoại đạo thường tuyên bố mình là A-la-hán nhưng bảy hôm trước khi Trưởng giả thành Vương Xá treo một cái bát lên cao và nói: “Nếu ai là A-la-hán, hãy bay lên hư không và lấy cái bát”. Chẳng có ai trong các vị tự xưng là A-la-hán có thể bay lên hư không. Bây giờ, chúng ta biết chắc rằng không có A-la-hán trên cõi đời này.

Nghe nói thế, Tôn giả Mục-kiền-liên nói với Tôn giả Tân-đầu-lư:

–   Này huynh, có nghe họ nói không? Như là họ đang thách đố Phật pháp. Bây giờ huynh có thần thông quảng đại, quyền lực siêu nhiên, hãy bay lên hư không và lấy cái bát ấy.

–   Tôn huynh Mục-liên, Ngài nổi tiếng là bậc thần thông đệ nhất, Ngài hãy lấy bát, nếu Ngài không lấy, tôi cũng sẽ lấy.

–   Huynh hãy đi.

Tôn giả Tân-đầu-lư nhập đại định, rồi xuất định Ngài đi quanh một tảng đá rộng ba dặm dùng đầu ngón chân nhấc bổng nó lên một cách dễ dàng như nhấc một miếng bông gòn. Ngài bay quanh thành Vương Xá bảy vòng. Thành này cũng rộng đúng ba dặm, tảng đá hiện lên bao trùm cả thành. Dân cư trong thành thấy vậy nghĩ: “Tảng đá sẽ rơi xuống đè bẹp chúng ta“. Họ run rẫy sợ hãi, họ đội nia lên đầu và trốn tứ tung. Ðến vòng bay thứ bảy, Tôn giả đẩy tảng đá ra xa và hiện thân trước dân chúng. Thấy Ngài, họ kêu lên:

–   Tôn giả Tân-đầu-lư! Hãy giữ tảng đá! Ðừng để nó đè bẹp chúng tôi.

Tôn giả hất tảng đá đi, nó rơi về chỗ cũ. Rồi đáp xuống trên nóc nhà Trưởng giả, ông này phủ phục sát đất, và nói:

–   Tôn giả, xin bay xuống.

Khi Tôn giả bay xuống đất, ông mời ngồi, xin phép hạ bát xuống và đặt bốn loại thức ăn ngon ngọt trong bát đem cúng dường Ngài. Tôn giả nhận bát thức ăn trở về tinh xá. Những người dân vắng mặt khi ấy, chưa được thấy phép lạ, đã tụ tập kéo theo sau Ngài và yêu cầu:

–   Tôn giả! Xin thi triển thần thông cho chúng tôi xem.

Tôn giả cũng lặp lại thần thông như thế cho họ rồi tiếp tục về tinh xá. Ðức Thế Tôn nghe tiếng reo hò hoan hô của đám đông, hỏi A-nan:

–   A-nan, họ hoan nghênh ai thế?

–   Bạch Thế Tôn, Tôn giả Tân-đầu-lư bay lên hư không và lấy cái bát bằng gỗ đỏ, dân chúng hoan nghênh Tôn giả.

Phật gọi Tôn giả đến hỏi:

–   Có đúng là ông đã làm như thế?

–   Bạch Thế Tôn, thật vậy.

–   Này Tân-đầu-lư, vì sao ông làm như thế?

Ðức Phật quở trách Tôn giả, bắt Ngài đập vỡ cái bát, đem mảnh vụn cho các Tỳ-kheo nghiền thành bột. Sau đó, Ngài đặt ra giới cấm thi triển thần thông vì mục đích như thế.

2B. Thế Tôn Hứa Thực Hiện Thần Thông

Các ngoại đạo nghe rằng Sa-môn Cồ-đàm đã ra lệnh đập vỡ cái bát, và đã chế giới cấm các đệ tử thi triển thần thông, họ nói: “Dù cho mạng sống họ tùy thuộc vào thần thông, các đệ tử Cồ-đàm cũng không dám phạm giới đã chế đặt. Hơn nữa, Sa-môn Cồ-đàm cũng giữ luật lệ này. Ðây là cơ hội cho chúng ta“.

Và họ đi rao trên khắp đường phố.

–   Chúng ta muốn giữ quyền năng ẩn mật, vì thế trong câu chuyện vừa rồi, chúng ta đã từ chối không phô bày quyền năng chỉ vì cái bát gỗ. Nhưng đệ tử của Cồ- đàm đã phô trương tài phép trước quần chúng chỉ vì một cái bát không đáng kể. Sa-môn Cồ-đàm đã khôn ngoan ra lệnh đập bể cái bát và đưa ra điều luật cấm đệ tử thi hành phép thuật. Từ nay chúng ta sẽ thi triển phép thuật chỉ với ông ấy.

Vua Tần-bà-sa-la nghe thế, đến bạch Phật:

–   Bạch Thế Tôn, tin đồn Ngài cấm các đệ tử trổ phép lạ có đúng không?

–   Ðúng thế, Đại vương.

–   Nhóm ngoại đạo đang nói rằng họ sẽ thi triển phép thuật với Ngài. Ngài phải làm gì trong trường hợp đó?

–   Nếu họ thi triển thần thông, Ta cũng sẽ thi triển.

–   Ngài không đặt ra luật cấm thi hành phép lạ đó ư?

–   Ðại vương, Ta không ra luật cho Ta, luật chỉ áp dụng cho đệ tử của Ta.

–   Có phải ý Ngài nói luật do Ngài đặt ra áp dụng cho mọi người trừ chính Ngài?

–   Ðại vương, Ta sẽ trả lời cách khác hơn. Này Ðại vương, Ðại vương có một vườn thượng uyển trong hoàng cung, đúng không?

–   Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

–   Ðại vương! Nếu có người dân nào ăn xoài và các thứ trái khác trong vườn của Ðại vương, Ðại vương sẽ làm gì?

–   Con sẽ phạt họ.

–   Nhưng chính Ðại vương có quyền ăn những trái cây ấy chứ?

–   Thưa vâng, con không phải bị phạt. Con có quyền ăn những thứ thuộc về con.

–   Này Ðại vương! Như Ðại vương cai trị trên vương quốc ba mươi dặm, và chính mình không bị phạt khi ăn trái cây trong vườn mình, trong khi người khác làm thế thì bị phạt. Cũng thế, Ta có quyền trên Tam thiên Đại thiên thế giới, và Ta có thể vượt qua những luật lệ do Ta đặt ra, người khác thì không, do đó, Ta sẽ thi triển một phép lạ.

Khi các nhà ngoại đạo nghe những lời này, họ nói với nhau:

–   Chúng ta bị hố rồi! Sa-môn Cồ-đàm tuyên bố rằng luật lệ do ông ấy đặt ra chỉ áp dụng cho hàng đệ tử, không phải cho ông ấy. Và ông ấy tuyên bố rằng chính mình sẽ thi triển một phép lạ. Chúng ta phải làm sao?

Vua hỏi Đức Phật:

–   Bạch Thế Tôn, khi nào Ngài thi triển thần thông?

–   Vào ngày trăng tròn tháng Asàlhi, bốn tháng nữa.

–   Bạch Thế Tôn, ở tại đâu?

–   Gần thành Xá-vệ.

(Vì sao Đức Phật chọn địa điểm xa như thế? Vì Xá-vệ là nơi mà tất cả Chư Phật đã thực hiện đại thần lực, và nơi ấy có thể chứa nhiều người).

Các ngoại đạo nghe như vậy bàn với nhau:

–   Bốn tháng nữa Sa-môn Cồ-đàm sẽ hiển thần thông ở Xá-vệ. Từ đây đến đó, chúng ta phải theo đuổi ông ta không ngừng. Khi dân cư thấy, họ sẽ hỏi: “Thế này là sao?”. Chúng ta sẽ trả lời: “Các ngươi nên nhớ chúng ta có nói: Chúng ta sẽ đấu phép với Sa-môn Cồ-đàm. Ông ta chạy trốn nên chúng ta đuổi theo”.

Khi Đức Phật đi khất thực trên đường phố thành Vương Xá, ngoại đạo cũng đi theo. Nơi nào Ngài thọ trai, thì họ nghỉ đêm ở đó, nơi nào Ngài nghỉ đêm, thì họ ăn sáng ở đó. Khi dân chúng hỏi:

–   Như thế nghĩa là gì?

Họ trả lời như trên. Dân chúng bảo nhau:

–   Chúng ta sẽ được xem phép lạ.

Và họ kéo theo sau Đức Phật đến Xá-vệ, nhóm ngoại đạo cũng theo sát nút. Ðến nơi họ chuẩn bị chỗ ở, xài phí cả trăm ngàn đồng tiền để ra lệnh xây cất một cái trại với cột bằng gỗ xiêm gai, và lợp bằng hoa sen xanh. Làm xong họ tuyên bố:

–   Chúng ta sẽ thực hành phép lạ tại đây.

Vua Ba-tư-nặc đến bạch Phật:

–   Bạch Thế Tôn, các ngoại đạo đã ra lệnh cất trại, con có thể xây cất một cái cho Ngài?

–   Không cần, Ðại vương, Ta đã có người.

–   Bạch Thế Tôn, ở đây có ai ngang bằng con để xây cất cho Ngài?

–   Ðại vương, có Vua trời Ðế Thích.

–   Bạch Thế Tôn, Ngài sẽ thi triển thần thông ở đâu?

–   Ở dưới gốc cây xoài gọi là cây của Ganda.

Các ngoại đạo nghe nói Phật sẽ hiển thần thông ở dưới cây xoài, lập tức họ nhổ hết rễ những cây xoài trong chu vi một dặm quanh đó, ngay cả những cây mới mọc hôm đó, và nếm tất cả vào rừng.

2C. Thần Thông Sơ Khởi

Vào ngày trăng rằm tháng Asàlhi, đức Thế Tôn đi vào thành. Cùng ngày đó Ganda, người giữ vườn thượng uyển, thấy một trái xoài to chín vàng giữa đám lá, bay mùi thơm ngon. Ganda bèn hái trái ấy, định sẽ dâng lên vua. Trên đường đi, gặp Phật, chàng nghĩ: “Nếu nhà vua ăn trái này, nhà vua có thể ban cho ta tám hay mười sáu đồng, không đủ nuôi ta suốt đời. Nhưng nếu ta cúng dường Phật, sẽ có lợi cho sự cứu rỗi ta không cùng“. Và chàng cúng quả xoài chín cho Phật.

Ðức Phật nhìn A-nan, A-nan nhận trái xoài và đem dâng Phật. Ðức Phật chìa bát ra nhận xoài và ngỏ ý muốn ngồi tại đó, A-nan trải tọa cụ. Khi Đức Phật ngồi xong, A-nan lọc nước ép trái xoài thành nước và dâng lên Phật. Phật uống nước ép trái xoài xong bảo Ganda:

–   Ðào một cái lỗ ở đây và trồng hột xoài xuống.

Chàng giữ vườn làm y lời Phật dạy. Ðức Phật rửa tay ngay trên chỗ xoài được trồng. Ngay lúc ấy, một cây xoài cao to tốt tươi mọc lên rất nhanh, cao năm mươi cubits (cao hơn 25 mét), từ thân cây vươn ra năm nhánh, mỗi nhánh cũng dài hơn hai mươi lăm mét, bốn nhánh chia bốn hướng và một nhánh mọc thẳng lên trời. Trong phút chốc, cây xoài phủ đầy bông và trái, và một bên có cành nặng trĩu từng chùm xoài chín. Các Tỳ-kheo đi theo sau Đức Phật, hái xoài chín ăn xong rồi ra về. Khi nhà vua nghe chuyện cây xoài thần diệu bèn ra lệnh không cho ai được chặt phá và đặt người canh gác. Vì cây xoài được trồng bởi Ganda, nên được đặt tên là cây xoài của Ganda. Hàng thứ dân cũng được ăn xoài và kêu lên:

–   Các thầy ngoại đạo đê tiện, khi các thầy nghe Sa-môn Cồ-đàm sẽ làm phép màu dưới chân cây xoài Ganda, đã ra lệnh nhổ tất cả mọi cây xoài trong vòng một dặm, ngay cả những cây mới mọc cũng lôi rễ lên. Ðấy, cây xoài Ganda đấy.

Nói xong họ ném xoài thối, hột xoài vào các ngoại đạo. Ðế Thích ra lệnh cho thần Gió:

–   Hãy nhổ trại các ngoại đạo và ném xuống cầu.

Rồi ra lệnh cho Thần mặt trời:

–   Hãy đốt chúng.

Các thần làm xong. Ðế Thích lại ra lệnh:

–   Thần Gió! Hãy thổi mạnh lên!

Thần Gió tung hết vũ bảo ra. Các ngoại đạo run rẩy, toát mồ hôi đầy mình. Thần gió còn phun bụi vào họ cho đến khi trông họ giống kiến đỏ. Ðế Thích ra lệnh đổ mưa, và toàn thể ngoại đạo giống như bò đốm. Trần truồng, hỗn loạn, họ chạy tứ tán.

Ngay khi họ bỏ chạy, một nông dân đệ tử của Phú-lan-na Ca-diếp nghĩ thầm: “Ngày mai là ngày Tôn sư ta thi triển quyền phép, ta phải đi xem“. Ông ta tháo cày ra, và mang bình đựng canh đã đem theo từ sáng sớm, và lấy dây trở về nhà. Khi Phú-lan-na đang chạy trối chết, ông hỏi:

–   Tôn sư, con về nhà với ý định sẽ đi xem Tôn sư phô bày phép lạ. Vậy Ngài đi đâu thế?

Phú-lan-na đáp:

–   Có gì ngươi muốn xem phép lạ? Ðưa ta bình đựng nước và sợi dây.

Người nông dân đưa, Phú-lan-na cầm bình nước và dây, đi đến bờ sông lấy dây cột bình nước vào cổ, rồi nhảy ùn xuống sông, bọt nước sủi lên, Phú-lan-na đã chết, rơi xuống A-tỳ.

Ðức Phật biến hóa một lối đi bằng châu báu trên hư không, chạy dài suốt từ chân trời phía đông đến chân trời phía tây. Khi chiều đến, người ta kéo đến xem đứng đông đầy trải dài tới ba mươi sáu dặm. Ðức Phật nghĩ: “Ðây là lúc Ta hiển thần thông“. Ngài rời hương thất ra đứng ở sân thượng.

Lúc ấy, một nữ Phật tử tên Gharanì chứng Tam quả, có thần thông, đứng gần Phật thưa:

–   Bạch Thế Tôn, bao lâu còn một đệ tử như con, không còn nhọc sức Ngài, con sẽ thi triển một phép lạ.

–   Này Gharanì, người thực hiện thần thông gì?

–   Bạch Thế Tôn, con sẽ nhận chìm trái đất xuống nước, và lặn xuống đó, rồi trồi lên xuất hiện ở mặt Ðông trái đất, cứ thế con sẽ xuất hiện ở cực Tây, cực Nam, cực Bắc của trái đất, và ở giữa. Dân chúng sẽ hỏi “Ai thế?” và người khác trả lời: “Ðó là Gharanì. Nếu đây chỉ là thần thông của một người đàn bà, thì thần thông siêu việt của Phật sẽ như thế nào?” Các ngoại đạo sẽ trốn mất, không cần đợi Thế Tôn.

Phật trả lời:

–   Ta biết rõ rằng con có thể thi triển thần thông như con vừa nói. Nhưng vinh dự này không phải của con.

Gharanì tự nhủ: “Ðức Thế Tôn từ chối đề nghị của ta, chắc có một ai có thể thi triển thần thông vĩ đại hơn ta“. Cô đứng qua một bên.

Một hôm nam cư sĩ tên Culla Anàthapindika nghĩ thầm: “Bao lâu đức Thế Tôn còn có đệ tử như ta, người chứng đến Tam quả, thì Ngài không bận tâm đến chuyện này”.

Ông đến bạch Phật:

–   Bạch Thế Tôn, con sẽ thực hiện một thần thông.

–   Thần thông gì?

–   Bạch Thế Tôn, con sẽ hóa thành Ðại Phạm Thiên, cao lớn mười hai dặm, đứng giữa quần chúng, rống lên như sấm sét, bão tố, con sẽ rung chuyển trái đất như Ðại Phạm Thiên rung chuyển quả đất. Dân chúng sẽ hỏi nhau: “Tiếng gì thế?” và người khác sẽ trả lời: “Ðó là tiếng động đất gây ra bởi Culla Anàthapindika”.

Các ngoại đạo nói: “Ðó mới chỉ là quyền năng của một cư sĩ, còn quyền năng của Phật như thế nào?” Nói xong họ sẽ bỏ chạy mà không đợi gặp Ngài.

Ðức Thế Tôn cũng trả lời như với Gharanì “Ta biết con có quyền năng đó“. Và từ chối đề nghị.

Một cô bé Sa-di lên bảy tuổi tên là Cìrà (Ly-la) đã đạt được Tứ thông, đến bạch Phật:

–   Bạch Thế Tôn, con sẽ thực hiện một thần thông.

–   Thần thông gì?

–   Con sẽ xếp ngọn núi Tu-di, tất cả nhũng ngọn núi trên trái đất, luôn cả rặng Hy-mã thành một hàng, và con bay lượn trên những ngọn núi ấy như một con ngỗng trời và không chạm đến núi. Dân chúng thấy con sẽ hỏi: “Ai thế?” và họ sẽ được trả lời: “Ðó là cô bé Sa-di Ly-la”. Các ngoại đạo sẽ nói: “Chỉ một cô bé bảy tuổi mới là Sa-di còn có thần thông như thế, thì thần thông của Phật ra sao?” Và họ sẽ chạy trốn không đợi gặp Thế Tôn.

Ðức Phật cũng từ chối y như trước.

Ðến một chú Sa-di bảy tuổi tên Cunda (Thuần Ðà), đã đạt Tứ thiền và giải thoát mọi tham dục, bạch Phật:

–   Bạch Thế Tôn, con sẽ thực hiện một thần thông.

–   Thần thông gì?

–   Con sẽ vác trên vai một cây hồng táo lớn, tượng trưng cho cõi Diêm-phù-đề, vẫy tới vẫy lui, sẽ đưa những nhánh táo sai trái cho mọi người ăn. Cũng như vậy con sẽ mang đến hoa san hô.

Rồi Tỳ-kheo ni Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) đến bạch Phật:

–   Bạch Thế Tôn, con sẽ trổ thần thông.

–   Thần thông gì?

–   Trước mắt mọi người trong mười hai dặm, con sẽ biến thành Chuyển Luân Vương với đoàn tùy tùng bao quanh ba mươi sáu dặm, đến đảnh lễ Phật.

–   Ta biết thần thông của ngươi. Phật cũng từ chối.

Tôn giả Mục-kiền-liên đến bạch Phật:

–   Bạch Thế Tôn, con sẽ hiện thần thông.

–   Thần thông gì?

–   Con sẽ đặt ngọn núi Tu-di, chúa tể các ngọn núi, giữa hai hàm răng và cắn nó như cắn một hạt đậu.

–   Rồi gì nữa?

–   Con cuộn tròn quả đất như một chiếc chiếu và ép chặt giữa những ngón tay.

–   Rồi gì nữa?

–   Con sẽ xoay trái đất như một bánh xe của thợ gốm, và con sẽ cho mọi người nếm thức ăn của đất.

–   Rồi gì nữa?

–   Con sẽ sử dụng núi Tu-di như một cây dù, nhấc quả đất đặt lên đó, cầm một tay như một nhà sư cầm cây dù nơi tay, đi dạo trên hư không.

–   Ta biết thần lực của ông.

Ðức Phật cũng từ chối lời đề nghị của Tôn giả. Mục-kiền-liên nói:

–   Chắc chắn Thế Tôn biết người nào có thể hiển thần thông quảng đại hơn ta.

Và Tôn giả đứng qua một bên. Ðức Phật bảo Tôn giả:

–   Này Mục-kiền-liên, việc này không phải việc của ông. Gánh nặng của Ta không giống gánh nặng của bất cứ ai, và không ai có thể gánh vác nó được, nên không có gì lạ khi chẳng ai gánh vác thế Ta được. Trong quá khứ cũng thế, không có ai có thể gánh vác gánh nặng ấy cho Ta.

Ngài bước đi trên con đường trân bảo, đoàn tùy tùng theo sau trải rộng mười hai dặm phía trước Ngài, mười hai dặm phía sau, mười hai dặm bên tay trái, mười hai dặm bên tay phải. Thế Tôn đứng oai nghiêm giữa một đám đông khổng lồ bao quanh hai mươi bốn dặm và hóa hiện thần thông Song Hành.

2D. Phật Hiện Thần Thông Song Hành

Thế nào là thần thông Song Hành của Như Lai? Trong dịp này, Thế Tôn hóa hiện thần thông Song Hành, thần thông vi diệu hơn bất cứ thần thông nào của chúng đệ tử. Từ trên thân Ngài phóng ra lửa, và từ dưới chân Ngài phun nước, hoặc dưới thân tuôn lửa, trên thân tuôn nước. Trước mặt tuôn lửa, sau lưng tuôn nước, hoặc trước mặt tuôn nước, sau lưng tuôn lửa. Từ hai tai, hai mắt, hai lỗ mũi, hai vai, hai tay, hai bên hông, hai chân, đầu ngón chân và gót chân, nơi mỗi phần trên thân Thế Tôn lần lượt tuôn lửa và nước. Những luồng lửa nước lóng lánh đủ màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng và màu kim tuyến chói lọi. Thế Tôn đi, hóa thân của Ngài đứng, hoặc nằm, hoặc ngồi; hóa thân nằm thì Thế Tôn đi, đứng hoặc ngồi. Ðây là truyền thống thần thông Song Hành của Đức Phật.

(Thần thông này, đức Thế Tôn biểu hiện khi Ngài đi lên đi xuống trên con đường trân bảo. Lúc đó Ngài nhập Hỏa Đại Tam-Muội thì lửa từ trên thân tuôn ra, và khi nhập Thủy Ðại Tam-Muội thì nước tuôn từ dưới thân. Tất cả những phần trên thân Ngài đều như vậy, hễ phần này tuôn lửa thì phần kia tuôn nước và ngược lại. Những luồng lửa và nước không hề lẫn lộn nhau, cả hai đều bắn tung xa đến trời Phạm Thiên và trở xuống cõi của Cakkavàla. Sáu sắc trong những tia lửa và nước ấy, như vàng lỏng chảy từ lò luyện kim, hay là vàng của vua từ ống chảy ra, chiếu sáng từ cõi Cakkavàla, lên đến Phạm thiên, rồi trở lại Cakkavàla, như một hình chóp nón và toàn pháp giới ngời sáng hào quang).

Vào ngày ấy, Đức Phật đi lên đi xuống hiển hóa thần thông Song Hành, thỉnh thoảng Ngài cũng thuyết Pháp cho quần chúng nghe, không làm họ chán với bài pháp vô tận mà làm cho tinh thần họ tăng trưởng hỷ lạc bởi chốc chốc Ngài lại để họ nghỉ ngơi, thư giãn. Cho nên họ vỗ tay ca ngợi vang rền. Ðức Phật nhìn vào giữa đám đông và dùng mười sáu cách để quan sát tâm trí mỗi người. Khi một chúng sanh nào thích thú với bài Pháp hay một thần thông nào, Ngài liền giảng đúng bài Pháp ấy và hiện chính thần thông ấy cho người đó. Rồi nhiều chúng sanh được Pháp nhãn thanh tịnh.

Khi Đức Phật thấy trong số quần chúng đông đảo ấy không ai hiểu ý mình và có thể hỏi, Ngài liền hóa hiện một thân khác, hóa thân hỏi và Phật trả lời. Khi Đức Phật đi tới đi lui thì hóa thân có những cử động khác và ngược lại. Ðược thấy thần thông và thuyết Pháp, có hai trăm triệu người được Pháp nhãn thanh tịnh.

2E. Ðức Phật Lên Cung Trời Ba Mươi Ba

Khi hiện thần thông xong, Đức Phật nghĩ thầm: “Chư Phật quá khứ sẽ ở đâu sau khi hiện thần thông?“. Theo thông lệ, Đức Phật sẽ lên cung trời Ba mươi ba và giảng dạy luận A-tỳ-đàm cho thân mẫu“. Nghĩ thế Ngài nhấc chân phải và bước lên ngọn núi Yugandhara, chân trái đặt lên núi Tu-di, và như vậy với ba bước chân chấm đất hai lần, Ngài đi sáu trăm tám mươi hai ngàn dặm. Không ai có thể đo được chiều dài mỗi bước chân của Phật, chỉ biết rằng khi Phật nhấc chân lên các ngọn núi co đầu thấp dưới chân Ngài, và khi Ngài bước qua chúng ngẩng lên và đứng ở vị trí cũ.

Trời Ðế Thích thấy Phật và nghĩ thầm: “Ðức Thế Tôn sẽ ở đây trong ba tháng mùa mưa trên ngai Hoàng Thạch sẽ làm lợi ích cho vô số chư Thiên. Nhưng nếu Thế Tôn an cư ở đâu, chư thiên khác sẽ không có chỗ chen chân. Phiến Hoàng Thạch này dài sáu mươi dặm và rộng năm mươi dặm, Thế Tôn ngồi trên ấy cũng như không có ai ngồi“. Ðức Phật biết ý nghĩ của Ðế Thích, Ngài ném tọa cụ trùm cả phiến đá Hoàng Thạch. Ðế Thích nghĩ: “Ðúng là Ngài ném tọa cụ trùm hết cả phiến đá thật, nhưng khi Ngài ngồi lên đó chắc chắn Ngài sẽ thành ra nhỏ tí“. Ðức Phật lại biết được những ý nghĩ ấy nên Ngài trùm phủ phiến đá trong nếp y của Ngài, như một Sa-môn cao lớn phủ áo nạp lên chiếc ghế đẩu thấp, và Ngài ngồi lên đó. Lúc ấy, dân chúng ở cõi Ta-bà bỗng nhiên không thấy Phật, như mặt trăng chợt lặn. Họ hỏi nhau:

–   Thế Tôn đã đi Cittakùta hay Kelàsa hay Yugandhara? Chúng ta không được trông thấy đấng Toàn Giác, bậc chúa tể thế gian, đấng trí tuệ của loài người.

Họ khóc lóc, than thở. Những người khác nghĩ thầm: “Ðức Thế Tôn thích độc cư, Ngài khó chịu khi hiện thần thông như thế cho một đám đông như thế, nên đã đi sang xứ khác. Chúng ta có còn gặp được Ngài hay không?

Họ khóc lóc, rên rỉ, nói kệ:

Ngày vui trong nhàn tịnh,
Ngài đã đi xa không trở lại cõi này.
Chúng ta không còn thấy bậc Tối Thắng,
Bậc chúa tể thế gian,
Bậc hiền trí nhất trong loài người.

Họ hỏi Tôn giả Mục-kiền-kiên

–   Thế Tôn đi đâu, thưa Tôn giả?

Mặc dầu biết Đức Phật đi đâu, nhưng Tôn giả nghĩ thầm: “Hãy để cho người khác tỏ phép mầu“, nên bảo mọi người:

–   Hãy hỏi Tôn giả A-nậu-lâu-đà.

Và khi mọi người hỏi, Tôn giả A-nậu-lâu-đà đáp:

–   Thế Tôn đã bay lên cung trời Ba mươi ba, ngồi trên ngai Hoàng Thạch, Ngài sẽ giảng dạy luận A-tỳ-đàm cho thân mẫu.

–   Thưa Tôn giả, khi nào Ngài trở về?

–   Ngài ở đó ba tháng hạ, và trở về vào dịp giải hạ.

Mọi người reo hò:

–   Chúng ta không đi đâu cả cho đến khi gặp lại Đức Bổn Sư.

Họ cắm trại tại đó, ngủ đêm dưới bầu trời. Và dù đông đảo họ không gây nhơ uế trên đất, vì khi họ đại tiểu tiện đất nứt ra và khép lại, cho nên lúc nào mặt đất cũng sạch sẽ.

Trước khi lên cung trời, Đức Phật dặn Tôn giả Mục-kiền-liên:

–   Mục-kiền-liên, ông thuyết Pháp cho mọi người, còn Cấp Cô Ðộc sẽ cung cấp thực phẩm.

Như vậy, trong suốt ba tháng, ông Cấp Cô Ðộc cung cấp đồ ăn, thức uống, trầu cau, hương hoa cho mọi người. Tôn giả Mục-kiền-liên thì giảng dạy và trả lời mọi câu hỏi.

Khi Ðức Thế Tôn đã lên cung trời Ba mươi ba, đã ngồi vào pháp tòa, Chư Thiên của mười ngàn thế giới vây quanh và hầu tiếp Ngài.

Trên cõi trời Ba mươi ba,
Khi Đức Phật – đấng tôn quý của mọi loài,
ngồi dưới cội san hô, trên tòa Hoàng Thạch,
Thần tiên mười ngàn cõi tụ về và hầu tiếp.
Ðấng Tối Thắng, ngồi nơi cao nhất của cõi Trời,
Không ai chói sáng bằng Ngài,
Chỉ mình Ngài độc nhất, rực rỡ át Chư Thiên.

Hoàng hậu Ma-da từ cõi trời Ðâu-suất đến, ngồi bên tay phải của Đức Phật, Trời Indaka cũng đến ngồi bên tay phải Phật, và Trời Ankura đến ngồi bên tay trái. Khi các vị Trời đầy quyền lực đến dự hội, Ankura phải rời khỏi chỗ và ngồi một chỗ cách xa mười hai dặm, trong khi Indaka còn ngồi bên tay phải Phật. Thế Tôn quan sát cả hai, Ngài muốn dạy về phước báo lớn lao của sự cúng dường xứng đáng, nên bảo Ankura:

–   Dù trong mười ngàn năm ngươi đã cho lập nên những lò sưởi trên suốt quảng đường dài mười hai dặm, và cúng dường vô số phẩm vật, sau thời gian dài ấy bây giờ ngươi đến đây nên trong chúng hội của Ta, lại ngồi xa Ta nhất tới mười hai dặm. Tại sao thế?

Thế Tôn nhìn Ankura Indak, tuyên bố ai cúng dường giá trị, Ngài nói:

Ankurà, ngươi cúng dường vô số,
Vậy mà sau một thời gian dài,
Ngươi ngồi chỗ thật xa. Hãy đến đây!

Âm thanh ấy dội xuống mặt đất, dân chúng đang cắm trại dưới ấy đều được nghe.

Ðược đấng Ðạo sư thức tỉnh, Ankura nói:

–   Những thứ cúng dường ấy đã đem lại ích lợi gì cho con? Người xứng đáng được cúng chẳng đem lại phước báo gì ư? Dạ xoa Indaka này chỉ dâng chút ít phẩm vật. Vậy mà ông ấy sáng hơn hết thảy chúng con, như mặt trăng sáng hơn tất cả tinh tú.

Khi Ankura nói như thế, Đức Phật hỏi Indaka:

–   Này Indaka, ngươi ngồi bên tay phải Ta, vì sao ngươi ngồi đây mà không dời đi?

Indaka đáp:

–   Bạch Thế Tôn, như một nông phu gieo một ít hột giống trên thửa ruộng tốt, con nhận phước lành này nhờ cúng dường đáng giá.

Ðể làm sáng tỏ vấn đề người nào cúng dường giá trị người nào không, Indaka nói:

Như hột giống, mặc dù rất nhiều, gieo trên đất xấu.
Không gặt hái nhiều, không làm nông dân vui thích.
Vật cúng dường dù nhiều, dâng người ác,
Không gặt quả nhiều, không lợi ích cho người thí.
Còn hột giống dù ít, gieo trên đất tốt,
Sẽ gặt nhiều kết quả, nông phu vui lòng.
Như thế, cúng dường người đức hạnh, chính trực và thánh thiện.
Dù ít vẫn được kết quả tốt, phong nhiêu.

Chuyện kể rằng, nhân dịp Ngài A-nậu-lâu-đà đi khất thực, Indaka cúng dường Tôn giả một muỗng thức ăn của mình. Nên mặc dù Ankura đã đốt hàng ngàn lò sưởi trên khoảng đường dài mười hai dặm trong mười hai ngàn năm, và bố thí rất nhiều, nhưng việc làm của Indaka được kết quả lớn hơn.

Thế Tôn bảo:

–   Này Ankura, phải nhận xét trong khi cúng dường. Với phương cách đó, giống như gieo giống trên đất tốt, việc cúng dường được quả tốt. Nhưng ngươi không làm như thế, nên phước báo ngươi không đủ.

Ngài nói kệ:

Cúng dường với sự xét đoán, được quả đây,
Người như thế được sanh Thiên.
Như Lai khen ngợi sự cúng dường với óc phán đoán.
Nên cúng dường đến người xứng đáng nhất,
Sẽ gặt quả tốt, như hạt giống gieo đất tốt.

Ngài nói những Pháp Cú tiếp theo:

Cỏ làm hại ruộng vườn,
Tham làm hại người đời,
Bố thí người ly tham,
Do vậy được quả lớn.

Cỏ làm hại ruộng vườn,
Sân làm hại người đời.
Bố thí người ly sân,
Do vậy được quả lớn.

Cỏ làm hại ruộng vườn,
Si làm hại người đời.
Bố thí người ly si,
Do vậy được quả lớn.

Cỏ làm hại ruộng vườn,
Dục làm hại người đời.
Bố thí người ly dục,
Do vậy được quả lớn.

Và ngồi giữa chúng hội Chư Thiên, Đức Phật muốn lợi lạc cho thân mẫu nên bắt đầu giảng dạy luận A-tỳ-đàm, bắt đầu bằng những câu: “Những điều này tốt, những điều này xấu, những điều này không tốt, không xấu”. Suốt ba tháng, Ngài dạy luận A-tỳ-đàm không ngừng. Lúc nào đi khất thực, Ngài hóa ra một thân khác và bảo: “Hãy nói Pháp cho đến lúc Ta trở về”. Xong, Ngài đi đến núi Hy- mã, sau khi đánh răng và súc miệng nơi hồ A-nâu-đạt (Anotatta), Ngài nhận thức ăn từ châu Uất-đơn-việt (Uttarakura), và ngồi trong vườn của một Trưởng giả Ngài dùng bữa trưa.

Tôn giả Xá-lợi-phất lên đến trời Ðâu-suất và làm thị giả cho Đức Phật. Khi Phật thọ trai xong, Ngài nói:

–   Xá-lợi-phất, hôm nay Ta đã nói Pháp như thế như thế, ông có thể thuật lại cho năm trăm Ty-kheo tu học với ông.

Và Phật dạy cho Tôn giả. Chúng ta được biết rằng, khi Đức Phật hiện thần thông Song Hành, có năm trăm thanh niên con nhà vọng tộc xuất gia với Tôn giả Xá- lợi-phất, và để ám chỉ các vị này, Đức Phật đã nói như trên. Giảng dạy cho Tôn giả xong, Phật trở lên cõi Trời thay vào chỗ hóa thân Phật và nói tiếp. Tôn giả Xá-lợi-phất trở xuống nhân gian, nói Pháp cho các Tỳ-kheo, và ngay khi Phật còn ở lại Thiên giới, các Tỳ-kheo đạt được Thất giác chi.

Vào thời Đức Phật Ca-diếp, năm trăm Tỳ-kheo này là bầy dơi nhỏ. Chúng ở trong một động núi, và có hai thầy Tỳ-kheo cư ngụ trong ấy đọc tụng kinh A-tỳ-đàm. Chúng nghe âm thanh Luận tạng khi bay chung quanh đó và đâm ra yêu thích âm thanh ấy. Với các câu: “Ðây là các uẩn của chúng sanh, đây là các đại của chúng sanh“, tuy chúng không hiểu ý nghĩa nhưng vì yêu mến tiếng đọc tụng, chúng được sanh Thiên. Vào thời giữa Phật Ca-diếp và Thích-ca, họ ở cung Trời hưởng khoái lạc và tái sanh vào Xá-vệ, trong gia đình vọng tộc. Do sự kính tin và thần thông Song Hành, họ xuất gia theo Tôn giả Xá-lợi-phất, và trở thành những người đầu tiên thông đạt Thất giác chi. Ðức Phật tiếp tục chỉ dạy như thế trong ba tháng. Khi nghe Ngài dạy xong, có tám trăm ngàn triệu Chư Thiên đạt được Pháp nhãn, và hoàng hậu Ma-da chứng Sơ quả.

2F. Ðức Phật Xuống Nhân Giới Và Chư Thiên Qủy Thần Hộ Tống

Quần chúng trong ba mươi sáu dặm, biết lễ giải hạ sẽ đến trong bảy ngày nữa, đến hỏi Tôn giả Mục-kiền-liên:

–   Thưa Tôn giả, có gì trở ngại không nếu chúng con biết ngày nào Đức Phật trở về? Chúng con sẽ không đi đâu cho đến lúc gặp Phật.

Tôn giả đáp:

–   Tốt lắm!

Tôn giả đi đến chân ngọn núi Tu-di và nghĩ thầm: “Hãy để mọi người thấy ta leo lên“. Và khi Tôn giả bắt đầu leo núi, thân hình Ngài hiển lộ với tấm y vàng trong suốt. Mọi người theo dõi và reo lên từng chập:

–   Tôn giả đang leo lên một dặm.. hai dặm..

Tôn giả lên đỉnh núi đảnh lễ dưới chân Phật, lấy đầu mình nâng bàn chân Phật và bạch:

–   Bạch Thế Tôn! Dân chúng muốn đến nơi nào để có thể thấy Thế Tôn, khi nào Thế Tôn trở xuống?

–   Nhưng này Mục-kiền-liên! Xá-lợi-phất đâu?

–   Bạch Thế Tôn! Tôn giả đang ở cổng thành Samkassa.

–   Này Mục-kiền-liên! Bảy ngày nữa Ta sẽ xuống tại cổng thành Samkassa vào ngày giải hạ. Ai muốn thấy Ta hãy đến đó.

Khoảng cách từ Xá-vệ đến Samkassa là ba mươi dặm, và không ai có thể cung cấp thức ăn cho mọi người trên lộ trình dài như thế. Phật bảo:

–   Hãy dạy họ phát nguyện giữ trai giới (không ăn) và đi theo sức của họ có thể đi, như thể đang đến tinh xá kế cận nghe pháp.

–   Thưa vâng.

Tôn giả trở lại, nói cho mọi người biết lời dạy của Phật.

Mùa an cư đã chấm dứt, lễ giải hạ được cử hành. Ðức Phật nói với Ðế Thích:

–   Nay là lúc Ta trở lại cõi Người.

Ðế Thích bèn hóa ra ba con đường bằng bậc thang, một bằng vàng, một bằng ngọc, và một bằng bạc. Ba con đường dẫn từ núi Tu-di xuống đến cổng thành Samkassa, đường bằng vàng bên phải dành cho chư thiên và quyến thuộc, đường bằng bạc bên trái dành cho Ðại Phạm Thiên và quyến thuộc, đường chính giữa bằng ngọc dành cho Thế Tôn. Trong dịp này, Phật đứng trên đỉnh núi Tu-di hóa hiện thần thông Song Hành và nhìn lên. Ngài nhìn suốt chín tầng trời Ðại Phạm, và khi nhìn xuống Ngài nhìn đến tầng Địa ngục Vô gián. Rồi Ngài quán sát bốn phương tám hướng, nhìn suốt vô tận cảnh giới, Người và Trời đều thấy lẫn nhau. Chúng hội đông dầy trong khoảng chu vi ba mươi sáu dặm, ai đã thấy vẻ huy hoàng của Phật đều mong muốn mình sẽ thành Phật.

Từ trên không trung, Đức Phật đi xuống trên con đường bằng ngọc, Chư Thiên xuống bằng đường vàng, Phạm Thiên xuống bằng đường bạc. Nhạc thần Càn- thát-bà (Pancasikha) bay bên phải Đức Phật, khảy đàn ca tụng Phật bằng những âm thanh tuyệt vời. Thần thiên-xa (Màtali) tung hương hoa bên trái Đức Phật. Trời Ðại Phạm cầm lọng, Trời Dạ-ma cầm quạt bằng đuôi con Yak. Với các Thiên Thần tùy tùng như thế, Đức Phật đặt chân xuống cổng thành Samkassa. Tôn giả Xá-lợi-phất đến đón Phật và đảnh lễ Ngài, và hứng khởi vì chưa bao giờ thấy đức Thế Tôn trở về trong nghi thức long trọng, vĩ đại của một vị Phật như thế. Tôn giả nói:

Con chưa từng thấy, chưa ai từng nghe,
Ðức Bổn sư thuyết pháp âm êm dịu,
Nay từ Ðâu-suất trở về với chúng tùy tùng.

Bày tỏ niềm vui bằng câu kệ và bằng mọi cách xong rồi, Tôn giả bạch Phật:

–   Bạch Thế Tôn, hôm nay, tất cả trời người được thấy sự tôn quý của Ngài và theo Ngài.

–   Này Xá-lợi-phất, với phạm hạnh như vậy, Chư Phật là bậc tôn quý hơn cả Người và Trời.

Ngài nói kệ:

181. Người trí chuyên thiền định,
Thích an tịnh viễn ly,
Bậc chánh giác, chánh niệm,
Chư Thiên cũng kính qui.

Lệ thường của Chư Phật, sau khi hóa hiện thần thông Song Hành đã an cư ba tháng trên cõi Trời, và trở xuống tại cổng thành Samkassa. Ðể ghi dấu nơi Đức Phật đặt bàn chân mặt xuống quả đất, một tinh xá được xây cất tại đây. Ðức Phật sẽ đặt một câu hỏi vừa sức hiểu của những ai chưa chứng Sơ quả, những người này trả lời dễ dàng câu hỏi ấy, nhưng không thể trả lời câu hỏi dành cho những người chứng Sơ quả. Tương tự như thế chứng Sơ quả không thể trả lời câu hỏi dành cho những người chứng Nhị quả.. cuối cùng người được Tứ quả không thể trả lời câu hỏi dành cho Tôn giả Mục-kiền-liên, Tôn giả Mục-kiền-liên không thể trả lời câu hỏi dành cho Tôn giả Xá-lợi-phất, và Tôn giả Xá-lợi-phất không thể trả lời câu hỏi dành cho Phật.

Ðầu tiên, Phật nhìn về phương Ðông, và các phương kế tiếp. Thật là một Pháp hội vĩ đại. Trời và người đứng khắp bốn phương tám hướng, Phạm Thiên phía trên, dưới là các Long vương, A-tu-la (Supannas), tất cả đều đứng với dáng cung kính, tất cả đều nói:

–   Bạch Thế Tôn, trong đây không ai có thể trả lời câu hỏi này, xin đừng hỏi thêm.

Ðức Phật nói:

–   Xá-lợi-phất bối rối khi nghe câu hỏi thuộc về Phật trí này: “Tất cả những ai đã tu theo Pháp và chứng quả A-la-hán, tất cả những ai đang tu tập, những ai chưa chứng quả Dự lưu, Thượng tọa, ông biết đấy, tôi hỏi rồi, ông hãy nói tôi nghe về việc đi và nói của những người ấy”.

Xong, Đức Phật nghĩ: “Mặc dù trong tâm Xá-lợi-phất không hề nghi ý nghĩ của câu hỏi, bởi ông ấy hiểu Ta đang hỏi về việc đi và nói của những người đang tu tập và những người đã tu tập đắc quả A-la-hán, nhưng ông ấy lại nghi mục đích Ta hỏi câu ấy, và ông ta đang suy nghĩ như vầy: “Về các vấn đề uẩn và đại của hữu tình, hay là vấn đề lục nhập, không biết ta nên nắm ý của Thế Tôn qua cái nào?” Nếu Ta không khai mở giúp Xá-lợi-phất, ông ấy không thể trả lời câu hỏi. Nay ta sẽ giúp Xá-lợi-phất“. Và Phật hỏi:

–   Xá-lợi-phất, ông có hiểu ý danh từ “hữu tình” này không?

Phật nghĩ tiếp: “Ngay lúc Xá-lợi-phất hiểu được ý Ta, ông ấy sẽ đáp câu hỏi trong phạm vi các uẩn của hữu tình“.

Ðức Thế Tôn vừa truyền mật ý, câu hỏi liền hóa ra rõ ràng theo một trăm và một ngàn cách. Sau khi Thế Tôn gợi ý, Trưởng lão lập tức trả lời câu hỏi.

Chúng ta biết rằng, trừ các bậc Toàn Giác, không ai có thể trả lời câu hỏi mà Phật nêu ra với Xá-lợi-phất. Cho nên Trưởng lão đứng trước Phật cao giọng hùng hồn nói:

–   Bạch Thế Tôn, con có thể đếm số giọt mưa rơi trên biển lớn của tất cả những cơn mưa trong suốt một kiếp, và cũng thế con đếm được số giọt mưa rơi trên đất liền, rơi trên núi. Và con có thể đưa ra một con số chính xác.

Phật dạy:

–   Này Xá-lợi-phất, Ta biết khả năng toán số của ông.

Thật vậy, không gì có thể sánh với trí tuệ của Xá-lợi-phất (Trí tuệ vô tỷ). Vì thế, Tôn giả nói:

–   Cát sông Hằng vô số, nước biển lớn bao la, vi trần nhiều vô lượng, con có thể dùng trí tính đếm được tất cả.

(Ý câu kệ trên như sau: “Bạch Thế Tôn bậc Thánh trí tối thượng, sau khi trả lời câu hỏi này, con có thể trả lời hàng trăm ngàn câu hỏi khác, mỗi câu được đánh dấu bằng một hạt cát hoặc một giọt nước hay một hạt bụi. Gồm tất cả số hạt cát, hạt nước, hạt bụi sông Hằng, không thiếu sót một hạt nào, số hạt bụi này còn ít hơn khả năng trả lời các câu hỏi của con”).

Vị Sa-môn dồi dào phước báo đã nương theo phương tiện của Phật trả lời câu hỏi thông suốt, mặc dù lúc đầu Tôn giả không biết đầu đuôi câu hỏi ra sao vì nó nằm trong lãnh vực Phật trí.

Khi các Tỳ-kheo nghe kệ này, đã bàn tán như sau:

–   Tôn giả Xá-lợi-phất, vị tướng quân của Chánh Pháp, đã trả lời câu hỏi mà không ai trên trái đất có thể trả lời được.

Ðức Phật nghe những lời bàn tán ấy, dạy rằng:

–   Ðây không phải lần đầu tiên Xá-lợi-phất trả lời câu hỏi mà trên toàn thế gian này không ai có thể trả lời, ông ấy đã làm như thế ở thời quá khứ.

Ðức Phật kể lại câu chuyện quá khứ (Jàtaka 99):

Dù cho hơn ngàn người thiếu trí tụ họp nhau và lảm nhảm cả một trăm năm.
Không bằng một người có trí siêu việt, hiểu rõ điều người khác nói.

(bài kết hợp từ Tích Truyện Pháp Cú (Thiền viện Viên Chiếu)
và Thi Kệ Pháp Cú Kinh (Tịnh Minh))