CUỘC ĐỜI ĐỨC XÁ LỢI PHẤT (SÀRÌPUTTA)

Soạn Giả: Nyanaponika Thera
Dịch Giả: Nguyễn Ðiều (1966)

-ooOoo-

cuoc-doi-duc-xa-loi-phat-phan-5

PHẦN 5

ÐẠI ÐỨC SÀRIPUTTA TRONG TÚC SINH TRUYỆN (JÀTAKA)

Theo kinh điển, chúng ta thấy rằng Ðại Ðức Sàrìputta xuất hiện rất thường trong Túc Sinh Truyện, tức những câu chuyện về tiền thân của đức Phật. Trong đó, tiền thân Phật (hay còn gọi là Bồ Tát) và Ðại Ðức Sàrìputta đã tái sinh làm nhiều nhân vật khác nhau nhưng có liên hệ.

Có những kiếp sống, chúng ta thấy Ðại Ðức Sàrìputta là một ông thầy, còn đức Bồ Tát là người học trò. Chẳng hạn như các câu chuyện Túc Sinh có tên là Susìma (số 163) Cùlanandiya (số 223), Sìlavimasa (số 305), Kàrandiya (số 356) và Mahà Dhammapàla (số 447).

Trong câu chuyện ghi sau cùng, tuy đức Bồ Tát là người học trò và Ðại Ðức Sàrìputta là ông thầy, nhưng người học trò cũng đã đem đến cho thầy mình một bài học giá trị là hãy nên phân biệt mỗi hạng người mà dạy dỗ. Không nên khuyên nhủ kẻ không muốn nghe hoặc không có ý định tìm hiểu kiến thức của mình.

Cũng có những lần luân hồi mà Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm người, còn đức Bồ Tát là một con thú. Ví dụ như trong các truyện: Romaka Jàtaka (số 227).

Chuyện Ðại Ðức Sàrìputta là một đạo sĩ rất khéo léo, có thể nuôi và huấn luyện một con chim đa đa (tiền thân Phật) theo ý muốn của mình. Và chuyện Bhojàjaniya Jàtaka (số 23) hay Dhammadhena Jàtaka (số 122).

Cũng có lắm khi vai trò của hai vị này lại đổi ngược. Chẳng hạn như trong Jaruda Pàna (số 256) và truyện Kundakakucchi Sindhava (số 254) thì Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một con thú, còn đức Bồ Tát thì làm người.

Nhưng ngộ nghĩnh hơn nữa là trong câu chuyện Kurunga Mìga, cả đức Bồ Tát lẫn Ðại Ðức Sàrìputta đều sinh làm thú.

Phần sau đây là những mẫu tóm tắt trong Túc Sinh Truyện. Ở đó ta thấy tiền thân của Ðại Ðức Sàrìputta đã xuất hiện một cách có ý nghĩa:

No 11. LAKKHANA JÃTAKA

Khi ấy Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một trong hai anh em con một gia đình nọ. Người em (tiền thân Sàrìputta) rất thông minh, còn người anh thì ngu tối. Cả hai đã giúp đỡ cha mẹ bằng cách chăn coi một đàn thú trên đồi. Từ nhà họ đến nơi cho đàn thú ăn cỏ phải trải qua một khu rừng nguy hiểm. Người em nhờ óc thông minh đã đưa bầy thú đến nơi một cách an toàn. Nhưng người anh ngu dốt (tiền thân Ðề Bà Ðạt Ða) đến phiên mình đã làm mất cả đàn gia súc.

No 23. BHOJÃJANIYA JÃTAKA.

Truyện này thuật lại kiếp ấy đức Bồ Tát sinh làm một con ngựa chiến phi thường và Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một kiếm sĩ kỵ mã được giao phó trách nhiệm đi bắt bảy vị vua đối nghịch. Sau đó người kiếm sĩ đã thành công nhờ tinh thần bền chí của ông và sự hy sinh của con ngựa tuyệt diệu.

No 69. VISAVANTA JÃTAKA.

Câu chuyện kể lại một con rắn (tiền thân Sàrìputta) có một thứ nọc trị khỏi bịnh nan y của người, nhưng khi nhả nọc ra thì rắn phải chết. Kết quả con rắn chịu chết vì muốn cứu ân nhân của mình.

No 99. PAROSAHASSA JÃTAKA.

Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm đệ tử của một đạo sĩ tu theo phái ẩn dật. Người đệ tử ấy đã thấu hiểu rõ ràng mọi câu nói vừa ngắn gọn vừa cao xa của thầy (tiền thân Phật). Ðây là câu chuyện được xem như nhiều kiếp tu luyện óc thông minh của Ngài.

No 122. DUMMEDHA JÀTAKA.

Truyện kể lại kiếp ấy Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm vua xứ Bénares (Ba La Nại). Ðây là một ông vua rất thông minh, có tài nhìn thú biết được giống tốt. Lúc đó đức Bồ Tát sinh làm một con bạch tượng loại quí, còn Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta) đồng thời là vua Ma Kiệt Ðà và là chủ con bạch tượng ấy. Sau đó ông bị mất con voi quí chỉ vì tánh ganh tị.

No 151. RÀJOVÀDA JÀTAKA.

Tiền thân của hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna là hai người đánh xe ngựa chiến của hai vương quốc hùng mạnh.

Một hôm nọ cả hai người cùng đánh xe gặp nhau trên một con đường hẹp. Mỗi bên đều muốn bên kia nhường lối cho mình đi trước. Và họ đã quyết định ăn thua bằng cách tán dương oai lực của những nhân vật mà họ kính trọng nhất.

Kết quả, người đánh xe thứ nhất (tiền thân Ðại Ðức Sàrìputta) thắng cuộc, vì ông đã minh chứng được giới đức của vị vua lãnh đạo xứ sở mình. Vị vua được ca ngợi ấy không ai khác hơn là tiền thân đức Phật.

No 256. ALINACITTA JÃTAKA.

Chuyện tiền thân Ðại Ðức Sàrìputta là một con voi rất khôn ngoan hiền lành và rất nhớ ơn người.

No 206. KURUNGA MIGA JÃTAKA.

Trong kiếp nọ, Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một con chim gõ kiến, và Ðại Ðức Mahà Moggallàna sinh làm một con rùa. Cả hai đã hợp lực cứu được mạng sống của bạn mình là một con nai tức là tiền thân Phật, khỏi tầm sát hại của tên thợ săn (tiền thân Ðề Bà Ðạt Ða). Nhưng sau đó đến lượt con rùa bị bắt và nhờ con chim gõ kiến giải thoát.

No 223. CŨLANANDIYA JÃTAKA.

Thuở kia Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một giáo sư Bà-la-môn, và Ðề Bà Ðạt Ða sinh làm học trò của Ngài. Ngài luôn luôn khuyên đồ đệ chẳng nên khó tính, hiểm ác và tàn bạo, nhưng lời dạy dỗ ấy đã trở nên vô ích.

No 254. KUNDAKA KUCCHI SINDHAVA JÃTAKA.

Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một con ngựa thực kỳ diệu, và đức Bồ Tát là một người buôn ngựa. Con ngựa lúc trước do một người đàn bà làm chủ, nhưng về sau lại thuộc vào tay người lái buôn.

No 256. JARUDAPÀNA JÀTAKA.

Câu chuyện nói về Mãng xà vương (tiền thân Ðại Ðức Sàrìputta) đã giúp Bồ Tát lúc đó là một người lái buôn để chuyên chở một số vàng bạc mà người thương gia ấy vừa may thu hoạch được.

No 272. VYAGGA JÀTAKA.

Có một lần Tỳ-khưu Kokàlika sinh làm một con chằn tinh, vì thế nên không thể sống chung được với tiền thân hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna.

No 227. ROMAKA JÀTAKA.

Truyện thuật Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một đạo sĩ rất trí tuệ. Vị đạo sĩ ấy đã nuôi và huấn luyện một con chim đa đa, tiền thân đức Bồ Tát.

No 281, 292. ABBHANTARA VÀ SUPATTA.

Ðây là hai chuyện kể lại sự ngẫu nhiên trong kiếp chót. Truyện số 281 thuật lúc ấy Ngài Ràhula nhờ một ít nước xoài pha đường của Ðại Ðức Sàrìputta, đã giúp cho mẹ là một Tỳ-khưu ni trị khỏi bịnh no hơi. Còn trong câu chuyện số 292 thì Ðại Ðức Sàrìputta đã đích thân tìm hộ những món ăn dễ tiêu để giúp bà. Ðây là kết quả của việc một kiếp trước bà đã nuôi dưỡng tiền thân của hai Ðại Ðức Sàrìputta và Ràhula.

No 310. SAYHA JÀTAKA.

Kiếp ấy Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một ông vua có viên cận thần tên Sayha là tiền thân Ðề Bà Ðạt Ða. Vua sai người cận thần đi chiêu dụ một đạo sĩ thông thái vừa là bạn cũ của vua về giúp triều đình, nhưng việc chiêu dụ đã thất bại. Vị đạo sĩ thông thái ấy chính là tiền thân đức Phật.

No 313. KHANTIVÀDI JÀTAKA.

Tích thuật khi đức Bồ Tát sinh làm một đạo sĩ rất đức hạnh. Người thuở bấy giờ vẫn gọi Ngài là một đạo sĩ nhẫn nại (Khantavàdi), đồng thời Ðề Bà Ðạt Ða sinh làm một vị vua hung bạo. Ðể thách thức đức nhẫn nại, bạo vương đã đem vị đạo sĩ kia ra hành hạ một cách tàn nhẫn, nhưng không lay chuyển nổi phạm hạnh của người chân tu. Kết quả đức nhẫn nại của vị đạo sĩ đã cảm hóa được viên quan tổng chỉ huy quân đội trong triều đình (tiền thân Ðại Ðức Sàrìputta, và chính vị võ quan này đã đến băng bó những vết thương cho đức Bồ Tát.

No 315. MAMSA JÀTAKA.

Khi ấy Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một người thợ săn và đức Bồ Tát làm con trai một người lái buôn. Lúc cả hai quen nhau và trở thành bạn hữu, thanh niên lái buôn đã dùng những lời lẽ chân chánh để thuyết phục bạn mình từ bỏ cái nghề hung ác ấy.

No 361. VANNARODHA JÀTAKA.

Truyện nói về kiếp chót khi hai vị Ðại đệ tử Sàrìputta và Mahà Moggallàna còn đang sống trong một nơi vắng vẻ. Lúc ấy có một người ăn xin hằng sống nhờ vật thực còn dư của hai Ngài. Nhưng tên ăn mày lại có ác ý muốn gây sự bất hòa giữa hai Ngài. Kết quả người ăn xin đã thất bại vì hai vị Ðại đệ tử này lúc nào cũng cảnh giác, không nghe những lời gièm xiểm xấu xa và sau cùng đồng bảo hắn hãy đi nơi khác.

Trong Túc Sinh Truyện có đoạn còn thuật lại rằng: Trường hợp tương tự như thế đã xảy ra trong một kiếp nọ, khi người ăn xin kia sinh làm một con chó sói, còn hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahahà Moggallàna sinh làm một con sư tử và một con cọp.

No 412. KOTISIMBALI JÀTAKA.

Tích kể lại khi Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm ông vua xứ Garada hay còn gọi là vua Supanna. (Supanna Ràja). Vị vua này đã cứu sống một cây cổ thọ khỏi bị hại vì nơi đó là chỗ ở của một vị thọ thần (tiền thân Bồ Tát).

No 444. KANHA DIPÀYANA JÀTAKA.

Kiếp đó Ðại Ðức Sàrìputta sinh làm một vị đạo sĩ tên Ànimandiviya đã bị một ông vua kết tội oan và đem ra hành hạ bằng cách dùng khí giới đâm xuyên qua thân thể. Nhưng vị đạo sĩ vẫn giữ hạnh nhẫn nại, không để tâm oán hận và ghi nhớ rằng đó chỉ là kết quả của những nghiệp ác từ kiếp trước.

Ðức Bồ Tát lúc ấy cũng là một đạo sĩ, bậc huynh trưởng của tiền thân Sàrìputta tên là Kanda Dipàyana, đã hết lời ca ngợi thái độ cao thượng của người sư đệ mình.

No 472. MAHÀ PADUMA JÀTAKA.

Truyện kể lúc Bồ Tát sinh làm Hoàng tử Mahà Paduma và tiền thân của Ðại Ðức Sàrìputta là một vị thần núi. Nhờ vị thần ấy mà Ngài Hoàng tử thoát chết.

-ooOoo-

PHỤ LỤC

NHỮNG THÁNH TÍCH CỦA HAI ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA (XÁ LỢI PHẤT) VÀ MAHÀ MOGGALLÀNA (MỤC KIỀN LIÊN)

Trên ngọn đồi ÀSaĩchi ở Bhopal. Saĩchi có tên cũ là Kakanara và trong bộ Mahàvansa gọi là Chetigiri. Có những di tích của mười ngôi Bảo Tháp. Những di tích ấy nằm trong số các công trình kiến trúc xưa nhất còn tồn tại trên xứ Ấn Ðộ.

Với những nét kiến trúc cổ kính và nghệ thuật điêu khắc thần kỳ, người ta phải công nhận rằng nó được kiến tạo trong một thời kỳ Phật giáo cực thịnh và đã biểu lộ cái văn minh cao ngất của Phật giáo. Những đặc điểm, chẳng hạn như vô số nét chữ khắc trên đó đã được người ta chép lại và các nhà khảo cổ đã xác nhận rằng chúng được tạo lập vào khoảng thời đức vua A Dục (Asoka Ràjà), nghĩa là vào khoảng thế kỷ thứ III trước Tây Lịch. Một số các di tích ấy được bảo tồn nguyên vẹn, trong khi những cái kia bị phôi pha bởi thời gian trôi qua bằng bao nhiêu thế kỷ nên chỉ còn lại bằng những mô đất và đá.

Một trong những Thánh tích ấy là ngôi Bảo Tháp thứ ba bây giờ vẫn tồn tại và rất nổi tiếng. Chính ông Alexander Cunningham và Ðại úy F. C. Meisey đã khám phá ra các di Thánh thể của hai vị Ðại đệ tử Phật là các đức A-la-hán Sàrìputta và Mahà Moggallàna vào năm 1851.

Cũng trong thời gian đó, người ta còn tìm ra nhiều Thánh thể lưu lại của nhị vị A-la-hán nói trên trong một Bảo Tháp tại vùng Satadhàra cách Saĩchi chừng sáu dặm.

Khi chân trục ở trung tâm Bảo Tháp tại Saĩchi bị sụp sâu vào lòng đất rồi, ngọn đồi Bhopal chỉ còn ló lên như một phiến đá cao khoảng năm thước Anh và nằm theo hướng Nam Bắc.

Bên dưới tảng đá tưởng nhớ ấy, người ta tìm thấy hai chiếc hộp làm bằng sa thạch màu xám. Mỗi cái có những dòng điêu khắc đơn giản bằng nét chữ Brahmin trên nắp hộp.

Chiếc hộp nằm ở phía Nam có khắc chữ “S” nghĩa là di tích của Ngài A-la-hán Sàrìputta, trong khi chiếc hộp nằm ở phía Bắc mang câu chuyện truyền kỳ của Ðại Ðức Mahà Moggallàna, hay nói cách khác đó là di tích của một đại A-la-hán có nhiều thần thông nhất trong các môn đệ của đức Phật.

Chiếc hộp nằm cực Nam lại chứa một hộp con khác, phẳng và rộng làm bằng chất bạch nu. Hộp ấy rộng vào khoảng hơn sáu tấc và cao chừng ba tấc Anh. Bề mặt của nó thật cứng và bóng nhẵn. Ngay cả chiếc hộp lớn đựng nó, nếu cho một người thợ chạm hay tiện trông thấy họ sẽ tấm tắc khen rằng “Nó đã được tạo ra do một bàn tay tinh xảo nhất”.

Xung quanh cái hộp con là những mảnh gỗ đàn hương mà người ta tin rằng đó chính là các vật còn lại của những chiếc hòm đựng để thiêu Thánh thể của hai vị A-la-hán kia. Bên trong ngoài các di Thánh thể ra, người ta còn tìm thấy nhiều loại ngọc thạch quí giá. Chiếc hộp con này còn chứa một mảnh xương (Xá lợi) của Ðại Ðức Sàrìputta. Ðó là Xá lợi duy nhất dài đến một tấc Anh.

Còn chiếc hộp nằm phía Bắc cũng chứa một hộp vuông nhỏ làm bằng bạch nu khác. Tương tự như chiếc hộp bên này, nhưng nó nhỏ, nhẹ hơn và bề mặt mềm hơn. Bên trong có chứa hai viên ngọc Xá lợi của Ðại Ðức Mahà Moggallàna. Trong hai viên ấy, viên lớn nhất dài khoảng non nửa tấc Anh.

Mặt trong mỗi chiếc nắp của hai chiếc hộp nhỏ đựng Xá lợi ấy có khắc sâu bằng một thứ mực đặc biệt hai chữ “SA” (có nghĩa là chiếc hộp này đựng Xá lợi của Ngài Sàrìputta) và chữ “MA” (có nghĩa là Xá lợi của Ðại Ðức Mahà Moggallàna).

Theo những chữ khắc ở Bảo Tháp mà ông Cunningham ghi lại thì hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna là những môn đệ dẫn đầu của đức Phật. Do đó các Ngài thường được kinh sách nói đến như những đệ tử tay mặt và tai trái của đức Bổn Sư.

Ngoài ra, những tro cốt của các Ngài cũng được bảo tồn kỹ lưỡng sau lễ Thánh hỏa và được lưu thờ cùng hai vị trí là bên mặt và bên trái của đấng Toàn Giác như lúc Ngài còn tại thế (Theo cuốn Bhilsa Topes -300).

Diễn tả như vậy là căn cứ vào một sự thực mà đức Phật thường làm khi còn sinh tiền là Ngài hay ngồi quay mặt về hướng Ðông, Ðại Ðức Sàrìputta hầu bên phải, còn Ðại Ðức Mahà Moggallàna hầu bên trái của Ngài, tức là phía Nam và phía Bắc theo phương hướng vậy.

Một trong những cuốn sách mà ông Cunningham viết để lại, có lưu chú gọi đó là đoạn nói về những đài kỷ niệm đức Phật tại địa phương (Buddha Bhita). Ông ta đã tìm ra hai vuông hộp làm bằng chất bạch nu có vân nhạt cũng đựng Thánh vật trong một bảo Tháp tại Satadhàra. Những vuông hộp này cũng có chạm khắc giống như hai cái ở Saĩchi: Ý nói đó là Tôn hài của hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna. Ngôi Bảo Tháp này có nhiều dấu hiệu cho ta biết là đã bị nhiều lần cướp đoạt. Tuy nhiên, ngọc Xá lợi trong đó vẫn còn lưu lại an toàn.

Ông Cunningham, người tỏ ra rất giỏi về môn khảo cổ đã lưu lại một phóng sự tường trình, nhiều chi tiết nhất về mọi vấn đề trong việc đào xới những bí vật.

Những bí vật ấy được đem ra ánh sáng một cách rõ ràng giá trị, đầy tôn kính. Và giờ đây nằm trọn trong các Bảo Tháp mà chúng ta vừa bàn đến. Cũng chính nhờ ông mà sự tin tưởng đối với những Thánh vật này được trở nên chắc chắn và lâu dài.

Theo Ấn Sử, các Thánh vật trong cả hai Bảo Tháp trước đây đã bị người Anh dời về nước và đặt tại Viện Bảo Tàng Victoria và Albert nhưng có vài sự trái ngược do lời mô tả của ông Cunningham về những vuông hộp đựng ngọc Xá lợi và những chiếc hộp vừa kể, trong đó Xá lợi được tàng trữ, đã cho ta có lý do mà tin rằng chính ông hoặc một nhân vật khảo cổ nào khác đã di chuyển các viên ngọc Xá lợi từ Saĩchi đến đựng trong hộp vuông nhỏ mà sau này người ta tìm ra tại Satadhàra. Do đó, những chiếc hộp nhỏ trong các hộp lớn mà người sau này không biết rõ gốc tích một cách quả quyết là những chiếc hộp ở Saĩchi.

Riêng những Thánh vật Xá lợi đã được bảo tồn ở Bảo Tàng Viện Victoria và Albert cho tới năm 1939 thì hội Ðại Bồ Ðề Tràng Ấn Ðộ (Mahà Bodhi Society) đã gởi đến chính phủ Anh một văn thư yêu cầu hoàn trả những báu vật ấy lại cho Ấn Ðộ. Lời yêu cầu đó đã một lần được chấp nhận nhưng vào năm ấy đệ nhị thế chiến lại bùng nổ. Sự hoàn chuyển Thánh tích đã bị hoãn lại vì lý do an ninh. Ðến ngày 24 tháng 12 năm 1946, công việc ấy mới được thực hiện.

Vào ngày đó, mọi Xá lợi Thánh vật đã được chánh phủ Anh trao lại cho các đại diện hội Ðại Bồ Ðề Tràng tại hai Viện Bảo Tàng Victoria và Albert. Sau đó, cuộc lễ chuyển hoàn về cựu thổ đã xảy ra một cách trọng thể.

Tuy nhiên, trước khi đem về tàng trữ tại Ấn Ðộ, các ngọc Xá lợi được chuyển sang xứ Tích Lan và được dân chúng Tích Lan cung nghinh một cách hân hoan và sùng kính.

Vào năm 1947, các ngọc Xá lợi đã được trình bày cho dân chúng lễ bái trong thời gian hai tháng rưỡi tại Viện Bảo Tàng Colombo. Theo sự phỏng đoán, trung bình cũng có hai triệu người đến lễ bái. Người ta còn thuật lại rằng không chỉ những người theo đạo Phật, mà có cả đến rất đông tín đồ Ấn Ðộ giáo và Thiên Chúa cũng đến chiêm bái ngọc Xá lợi.

Ðoạn đường kế tiếp để cung thỉnh Xá lợi là từ Tích Lan đến một ngôi chùa mới đang được xây dựng để tái phụng thờ tại Sanchi, gần thủ phủ Calcutta. Ở đó, người ta lại một lần nữa, đem ngọc Xá lợi trưng bày cho dân chúng lễ bái tại chùa Derama Ràjika, vì đó là trụ sở trung ương của hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ. Những cảnh tượng ngưỡng vọng và sùng bái Thánh tích một cách tấp nập như ở Tích Lan lại cũng xảy ra ở đây.

Hằng hai ba tuần lễ liên tiếp, những đoàn người chen chúc nhau không dứt đã đến ngôi Quốc Tự Ấn Ðộ để chiêm bái từ sáng đến chiều tối. Hầu hết những người đến lễ bái là theo Ấn Ðộ giáo, nhưng cũng có một số lớn những người theo các đạo khác. Nhưng tất cả đến đó đều lễ bái một cách vô cùng kính cẩn.

Cũng có nhiều đoàn chiêm bái từ các nơi xa xôi trong và ngoài nước Ấn Ðộ tấp nập về chiêm ngưỡng di tích của hai bậc Tối Thượng xứ Phật này.

Kế đó là lời thỉnh cầu của chính phủ Miến Ðiện. Họ cũng ao ước Xá lợi được đem đến trưng bày ở nước họ cho dân chúng lễ bái. Sự thỉnh cầu này đã được hoan hỷ chấp thuận. Vì vậy một cuộc lễ tiếp rước long trọng được cử hành tại Miến Ðiện đã làm sống lại một thời gian vàng son an lạc nhất trước đây khi Phật giáo còn cực thịnh. Ðể cho mọi người đều có một dịp chiêm bái, các viên ngọc Xá lợi đã được cung nghinh vòng quanh trong xứ, dọc theo nhiều con sông trên một thuyền rồng (Irrawaddy) từ Mandalay đến Rangoon. Chiếc thuyền rồng cho Xá lợi chạy bằng hơi nước này được những chiếc thuyền khác trang trí một cách lộng lẫy theo phong tục Miến Ðiện hộ tống. Và tại mỗi thành phố dọc theo hai bên bờ sông những Thánh tích Xá lợi lại được dân chúng rước lên bờ, đem an vị trong một ngôi chùa chính tại nơi ấy cho dân chúng lễ bái. Ðồng thời các cuộc lễ khác cũng được tổ chức.

Ðã có không biết bao nhiêu ngàn người từ những làng mạc kế cận đến nghe pháp và cầu kinh. Ðiều đáng chú ý là trong thời gian Xá lợi được rước lên an vị như thế những buổi thuyết pháp và những thời cầu kinh đã được tổ chức liên tục suốt ngày lẫn đêm.

Ðoạn để đáp ứng lời thỉnh cầu của chính phủ Népal, ngọc Xá lợi lại được đưa sang Népal và Ladakh.

Sau một thời gian cung nghinh khắp nơi cho người đời chiêm bái, Xá lợi được rước về Ấn Ðộ, và chính phủ Miến Ðiện đã thỉnh cầu để được chia một phần Xá lợi đem về Miến Ðiện tạo Bảo Tháp phụng thờ.

Giáo Hội Ðại Bồ Ðề Tràng của Ấn Ðộ đã chấp thuận lời yêu cầu đó, và chính vị Thủ Tướng nước Miến Ðiện đã đích thân bay sang Calcutta tiếp nhận. Hai nước này cũng tổ chức một cuộc lễ trao Xá lợi trọng thể vào ngày 20 tháng 10 năm 1950.

Phần Xá lợi phân phối cho Miến Ðiện sau này đã đem phụng thờ tại ngôi Lạc Thế Tự mà người Miến Ðiện gọi là KABA AYE JEDI dịch sang tiếng Anh là World Peace Pagoda.

Ngôi chùa này được xây bên cạnh tòa Ðệ Lục Ðại Hội Kết Tập Phật Giáo, một cơ quan cao cấp Phật Giáo gần Rangoon. Nhiều cuộc lễ thật trang nghiêm cho việc đăng quang và an vị Xá lợi đã được tổ chức kéo dài từ 5 đến 11 tháng 3 năm 1952.

Một phần Xá lợi khác cũng được cống hiến cho dân tộc Tích Lan để phụng thờ trong một ngôi Bảo Tháp mới do hội Ðại Bồ Ðề Tràng (Mahà Bodhi) Tích Lan xây cất.

Trong khi soạn giả đang ghi chép lại các diễn tiến lịch sử này, những viên ngọc Xá lợi ấy được tạm thời an vị trong một ngôi chùa của Giáo Hội Ðại Bồ Ðề Tràng Tích Lan tại thủ đô Colombo để cho công cuộc kiến trúc hoàn tất.

Riêng phần nước Ấn Ðộ, ngày 30 tháng 11 năm 1958 những Thánh thể vật lưu thế như chúng ta vừa nói, lại được tái an vị ở Saĩchi, trong Bảo Tháp, tại một ngôi chùa nguy nga tráng lệ. Ngôi chùa và Bảo Tháp này đã được xây cất với một công trình vĩ đại là cốt để tái phụng trì Xá lợi vậy.

Giờ đây Xá lợi đã trở về cố thổ và gieo vào lòng Phật tử đến hành hương từ khắp các nước bốn phương trên thế giới một sự sùng kính sâu xa và khiến họ chẳng bao giờ quên được đời sống của những Thánh nhân đệ tử ưu tú nhất của một đấng Toàn Giác.

Những vị đã gặt hái được các Thánh quả cao thượng nhất, đầy đủ nhất trong giáo lý của chư Phật.

Hai cái tên Sàrìputta và Mahà Moggallàna (Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên) ấy từ nay cho đến hết năm ngàn năm sẽ sống song song với Tám Muôn Bốn Ngàn Pháp Môn của đức Phật như một sức mạnh hộ pháp, hay một gương sáng lưu truyền.

Dịch xong tại Sài Gòn, tháng 12 năm 1966
Dịch giả NGUYỄN ÐIỀU

-ooOoo-

Phần 1      |    Phần 2     |     Phần 3     |     Phần 4

—————————————

Xem thêm:

Cuộc đời Đức Đại Ca Diếp
– 
Cuộc đời Đức Mục Kiền Liên
– 
Cuộc đời Đức A Nan Đà